![]() |
Cắt giảm các chi phí bắt buộc như phí và hoãn/giảm thuế đối với doanh nghiệp có giá trị kích thích và hỗ trợ kinh tế hiệu quả hơn so với cứu trợ hoặc tài trợ trực tiếp (Ảnh minh hoạ: Internet) |
TS. Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP) cho rằng, yếu tố lãi suất giảm không hẳn quyết định hành vi đầu tư hoặc mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 còn tồn tại thì một số nhu cầu đặc thù sẽ biến mất, theo đó các ngành kinh doanh phục vụ các nhu cầu đó cũng sẽ không trở lại, đồng nghĩa với nhu cầu vay vốn không có.
Cắt giảm chi phí quan trọng hơn cứu trợ trực tiếp
Để hỗ trợ cho nền kinh tế vượt qua khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, Chính phủ đã sử dụng song hành cả chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ.
Theo đó, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã hạ lãi suất điều hành 2 lần xuống mức từ 3% - 4,5% nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại (NHTM) giảm lãi suất cho vay.
Về chính sách tài khóa, ngoài gói hỗ trợ tín dụng 250.000 tỷ đồng đang được các NHTM triển khai, còn có gói hỗ trợ trị giá 61.580 tỷ đồng được Thủ tướng Chính phủ ký thông qua với mục đích hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp khó khăn vì dịch Covid-19.
Bên cạnh đó, còn các biện pháp hỗ trợ khác như: tăng khả năng tiếp cận vốn vay của khách hàng; áp dụng các biện pháp hỗ trợ như gia hạn nợ, giảm lãi vay, không phân loại lại nhóm nợ, giảm phí. Gia hạn thời gian nộp thuế và miễn lãi chậm trả, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất…
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia do nguồn lực tài khóa hạn hẹp sau nhiều năm thâm hụt ngân sách, cùng với việc chính sách tiền tệ bị ràng buộc với các mục tiêu về lạm phát và tỷ giá, Việt Nam không thể theo đuổi các chính sách vĩ mô theo cách tương tự như các nước khác trên thế giới.
“Nếu thực hiện nới lỏng tiền tệ với quy mô lớn như nhiều nền kinh tế hiện nay thì có thể dẫn đến mất giá nội tệ, môi trường đầu tư trở nên rủi ro hơn, làm trì hoãn các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thêm vào đó, việc phòng chống dịch và trợ cấp an sinh xã hội do ảnh hưởng của dịch bệnh cũng đang tạo áp lực lớn lên cán cân ngân sách”, ông Thế Anh đánh giá.
Vì vậy, chuyên gia này cho rằng ưu tiên hàng đầu lúc này là đảm bảo an sinh xã hội, giữ ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và hỗ trợ các doanh nghiệp còn hoạt động.
“Trong trường hợp của Việt Nam, việc chủ động cắt giảm các chi phí bắt buộc như phí và hoãn/giảm thuế đối với doanh nghiệp có giá trị kích thích và hỗ trợ kinh tế hiệu quả hơn so với cứu trợ hoặc tài trợ trực tiếp”, ông Thế Anh nhận định.
Riêng đối với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, các chuyên gia cho rằng, cần có sự phân loại và tập trung hơn cho từng đối tượng, ngành bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Đẩy mạnh đầu tư công
Để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng sau dịch Covid-19, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng thúc đẩy đầu tư công trong nửa cuối năm là rất quan trọng.
Tuy nhiên, các chuyên gia VERP cho rằng thúc đẩy đầu tư công không nên là việc tăng chi tiêu công một cách dàn trải, vội vàng, thiếu kiểm soát. Việt Nam chỉ nên đẩy nhanh những dự án, đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia, đã được phê duyệt và đã được bố trí sẵn vốn thực hiện.
“Việc chia nhỏ ra làm nhiều gói thầu và thực hiện rải rác ở nhiều địa phương để nhiều doanh nghiệp và nhiều địa phương có thể tiếp cận, tạo sự lan tỏa tốt hơn cũng có thể được cân nhắc như một giải pháp đặc biệt”, VERP kiến nghị.
Chính sách tiền tệ trong thời điểm hiện nay được đánh giá là sẽ ít hiệu quả. Khi dịch bệnh còn tồn tại thì một số nhu cầu đặc thù sẽ biến mất, theo đó các ngành kinh doanh phục vụ các nhu cầu đó cũng sẽ không trở lại được, dù lãi suất có giảm cũng không tạo được động lực để doanh nghiệp vay vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh.
“Yếu tố lãi suất không hẳn quyết định hành vi đầu tư hoặc mở rộng kinh doanh vào lúc này. Dư địa chính sách tiền tệ có thể còn, tuy nhiên việc tính toán dùng vào thời điểm nào và mức độ ra sao cần phải cân nhắc kỹ, vì chính sách tiền tệ còn đối mặt với ràng buộc về lạm phát và giá trị đồng nội tệ”, ông Thế Anh nói.
Các chuyên gia cho rằng, song hành với những chính sách mang tính ngắn hạn cần các chính sách có tầm nhìn dài hạn nhằm cải thiện nền tảng vĩ mô, cải thiện môi trường kinh doanh, cơ sở cho niềm tin xã hội để chuẩn bị cho những bất trắc lớn hơn trong tương lai.
Trong đó, lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch. Đa dạng hóa thị trường xuất/nhập khẩu cũng cần được chú trọng hơn nữa nhằm tránh phụ thuộc nặng nề vào một số đối tác kinh tế lớn.
Huyền Anh