Sau giai đoạn bùng nổ những tháng đầu năm, nhiều nhóm cổ phiếu tăng "nóng" như ngân hàng, chứng khoán... đã không còn hấp dẫn về định giá trong ngắn hạn và bước vào nhịp điều chỉnh.
Tuy nhiên, trong bối cảnh thiếu vắng kênh đầu tư cùng môi trường lãi suất ngân hàng thấp, thị trường chứng khoán vẫn là nơi trú chân lý tưởng của dòng tiền và lần lượt tìm kiếm cơ hội tại các nhóm ngành chưa tăng nhiều như phân đạm, logistics cảng biển, vật liệu xây dựng, bất động sản, hay nổi bật nhất là ngành than.
“Ăn theo” giá than
Sự quan tâm của dòng tiền giúp nhiều cổ phiếu ngành than chỉ trong một thời gian ngắn đã vượt mệnh giá, thậm chí cả những mã vốn được xếp vào hàng “trà đá” trong nhiều năm trước cũng gặp được thời.
Có thể kể đến mã TVD của CTCP Than Vàng Danh ghi nhận mức tăng 151,4% từ vùng giá 7.000 đồng/cp hồi đầu tháng 6 lên hơn 18.000 đồng/cp như hiện nay (chốt phiên 28/9). Thanh khoản của TVD cũng cải thiện rõ rệt, lên trung bình hơn 750.000 đơn vị/phiên, trong khi trước đó chỉ duy trì ở mức dưới 300.000 đơn vị.
Nhiều cổ phiếu ngành than bứt phá chỉ trong thời gian ngắn. |
Tương tự, mã TDN của CTCP Than Đèo Nai cũng tăng một mạch từ vùng giá hơn 7.000 đồng/cp hồi tháng 6 lên 18.000 đồng/cp như hiện nay. Trước đó, tại phiên giao dịch ngày 16/9, TDN thậm chí còn vươn lên mức 19.900 đồng/cp, tương đương mức tăng 176,4% chỉ trong hơn 3 tháng.
Sau nhiều năm “tàng hình” trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu MDC của CTCP Than Mông Dương đã bắt kịp những “đồng nghiệp” khi tăng gần 143% kể từ đầu tháng 6 đến nay. Tăng giá cũng là diễn biến chung của cổ phiếu NBC (CTCP Than Núi Béo), HLC (CTCP Than Hà Lầm), MVB của Tổng công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc TKV… với mức tăng trung bình khoảng 100%.
Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân “vụt sáng” của nhóm cổ phiếu ngành than chủ yếu đến từ biến động giá than trên các sàn giao dịch hàng hóa quốc tế. Theo đó, từ khoảng tháng 6, giá than thế giới bắt đầu tăng phi mã từ mức 90 USD/tấn lên đến nay đã xấp xỉ 180 USD/tấn, gấp đôi chỉ sau hơn 3 tháng.
Cùng chiều với giá than quốc tế, giá than nội địa cũng đã tăng lên mức bình quân hơn 2 triệu đồng/tấn, tương ứng mức tăng khoảng 20% so với thời điểm cuối quý II. Dự kiến đà tăng giá của giá than vẫn sẽ tiếp tục do Trung Quốc và Ấn Độ đẩy mạnh đặt hàng để đáp ứng nhu cầu điện gia tăng từ các nhà máy sản xuất công nghiệp.
Bên cạnh đó, vừa qua, Bộ Tài nguyên và Khoáng sản Indonesia đã công bố danh sách 34 doanh nghiệp khai thác, kinh doanh than tạm thời bị cấm xuất khẩu do vi phạm quy định về nghĩa vụ tỷ lệ bán than tại nội địa. Điều này có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng trưởng cả về sản lượng tiêu thụ cũng như lợi nhuận từ xuất khẩu.
Nhiều yếu tố không chắc chắn
Việc giá than tăng mạnh cũng giúp các nhà đầu tư đã đặt niềm tin vào nhóm cổ phiếu “vàng đen” kỳ vọng kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ tăng trưởng mạnh trong thời gian tới. Từ đó sẽ là yếu tố hỗ trợ cho sự tăng trưởng của giá cổ phiếu.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, giá than tăng mạnh trong thời gian qua chưa thể giúp doanh nghiệp trong ngành bứt phá do nhu cầu sử dụng than trong nước sụt giảm, những doanh nghiệp hoạt động trong ngành dù có doanh thu nghìn tỷ nhưng lãi ròng thu về lại khá khiêm tốn.
Điều này đã được chứng minh trong “bức tranh” kinh doanh nửa đầu năm 2021 vừa qua của các doanh nghiệp than.
Có thể kể đến CTCP Than Cọc Sáu – Vinacomin, trong 6 tháng đầu năm ghi nhận doanh thu thuần đạt 1.269 tỷ đồng, nhưng lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 3,2 tỷ đồng, giảm 80% so với cùng kỳ.
Tương tự, dù đạt mức doanh thu lên tới 2.545 tỷ đồng nhưng Than Vàng Danh cũng chỉ thu về được 21,4 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, giảm 31% so với cùng kỳ do giá vốn chiếm tới hơn 93% tổng doanh thu, cùng với đó là “gánh nặng” chi phí, chủ yếu là lãi vay và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Ngoài ra, theo đại diện của Than Vàng Danh, trong quý II vừa qua, việc tiêu thụ than cho khu vực Uông Bí, Đông Triều gặp nhiều khó khăn khiến sản lượng giảm gần 80.000 tấn so với kế hoạch đã ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuận của công ty.
Diễn biến này cũng là mẫu số chung của CTCP Xuất nhập khẩu than (mã: CLM), Than Mông Dương, Than Miền Bắc (mã: TMB)…
Hơn nữa, tuy các địa phương như Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Điện Biên là các vùng sản xuất chính trong nước đã cơ bản kiểm soát được dịch bệnh, nhưng do tác động nhất định của thời tiết cùng với khó khăn chung của nền kinh tế, dẫn đến hoạt động khai thác và phân phối vẫn bị ảnh hưởng.
Trong khi đó, đặc thù của ngành than là ngành suy thoái, trữ lượng dần cạn kiệt, khai thác ngày càng xuống sâu thì chi phí càng bị đẩy lên cao. Do đó, không nên kỳ vọng quá cao vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp than nội địa.
Ngoài ra, cũng như những cổ phiếu hay có đà tăng trưởng nhờ “ăn theo” giá nguyên vật liệu thế giới thường chỉ là “bước sóng ngắn”, khó được đánh giá là tiềm năng, bởi yếu tố nội tại không phải là mấu chốt.
Minh Khuê