Cụ thể, Bộ NN&PTNT cho biết, kim ngạch xuất khẩu nông sản trong tháng 3 ước trên 4,7 tỷ USD, tăng 6,0% so với tháng 3/2021, tăng 47,1% so với tháng 2/2022. Trong đó, giá trị xuất khẩu (XK) nhóm nông sản chính khoảng 2,0 tỷ USD, lâm sản chính ước gần 4,3 tỷ USD, thủy sản đạt 900 triệu USD và chăn nuôi đạt 29,9 triệu USD...
Tính chung quý I, kim ngạch XK nông lâm thủy sản ước đạt trên 12,8 tỷ USD, tăng 15,3% so với quý I/2021. |
Tính chung quý I, kim ngạch XK nông lâm thủy sản ước đạt trên 12,8 tỷ USD, tăng 15,3% so với quý I/2021.
Trong đó, XK nhóm nông sản chính đạt gần 5,5 tỷ USD, tăng 12,8%; lâm sản chính đạt 4,3 tỷ USD, tăng 4,4%; thủy sản ước đạt 2,4 tỷ USD, tăng 38,7%; chăn nuôi ước đạt 75,6 triệu USD, giảm 22,4%; XK đầu vào sản xuất khoảng 603 triệu USD, tăng 72,5% (nhất là phân bón giá trị XK khoảng 291 triệu USD, tăng 2,8 lần so với cùng kỳ năm trước).
Quý I, nhiều mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu cao hơn so với cùng kỳ, như: Cao su, chè, gạo, hồ tiêu, sắn và các sản phẩm từ sắn, cá tra, tôm, gỗ và các sản phẩm gỗ.
Giá trị xuất khẩu cà phê đạt khoảng 1,2 tỷ USD (tăng 50,4%); cao su đạt khoảng 746 triệu USD (tăng 10,7%); gạo đạt 715 triệu USD (tăng 10,5%); hồ tiêu khoảng 252 triệu USD (tăng 40,8%); sắn và sản phẩm sắn đạt 420 triệu USD (tăng 15,5%), cá tra đạt 606 triệu USD (tăng 82,0%), tôm đạt 929 triệu USD (tăng 39,7%), gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 3,9 tỷ USD (tăng 3,0%); mây, tre, cói thảm đạt 265 triệu USD (tăng 34,4%).
Những mặt hàng giảm gồm: Chè đạt 36 triệu USD (giảm 11,9%), nhóm hàng rau quả đạt khoảng 849 triệu USD (giảm 12,0%), hạt điều ước đạt 630 triệu USD (giảm 5,0%).
Ước giá trị XK nông, lâm, thủy sản 3 tháng đầu năm 2022 của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á chiếm 40,3% thị phần, châu Mỹ: 29,5%, châu Âu: 13,1%, châu Đại Dương:1,7% và châu Phi: 1,3%.
Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ đạt gần 3,5 tỷ USD (chiếm 27,1% thị phần), trong đó kim ngạch XK nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tới 68,2% tỷ trọng kim ngạch XK nông lâm thủy sản của Việt Nam tại thị trường này. Đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc trên 2,1 tỷ USD (chiếm 16,6% thị phần) với kim ngạch xuất khẩu nhóm cao su chiếm 29,0% tỷ trọng kim ngạch XK nông lâm thủy sản...
Về nhập khẩu (NK), tính chung quý I, kim ngạch NK các mặt hàng nông lâm thủy sản ước gần 9,8 tỷ USD, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong đó, giá trị NK các mặt hàng nông sản chính ước đạt 6,2 tỷ USD, giảm 2,7%; nhóm hàng thủy sản ước khoảng 564,3 triệu USD, tăng 13,0%; nhóm lâm sản chính khoảng 675,4 triệu USD, giảm 10,3%; nhóm sản phẩm chăn nuôi khoảng 726,3 triệu USD, giảm 15,5%; nhóm đầu vào sản xuất ước trên 1,6 tỷ USD, giảm 2,3% (nhưng phân bón tăng 55,8%, thuốc bảo vệ thực vật tăng 17,1%).
Đứng đầu là thị trường Brazil XK sang Việt Nam đạt 846 triệu USD, chiếm 8,6% thị phần (trong đó mặt hàng bông các loại chiếm 29,5% giá trị). Tiếp theo là Campuchia đạt khoảng 738,4 triệu USD, chiếm7,5% (mặt hàng cao su chiếm khoảng 81,1%).
Trong thời gian tới, Bộ NN&PTNT cho biết sẽ theo dõi, nắm bắt và tổng hợp thông tin, số liệu về giá cả, tình hình sản xuất và nguồn cung các mặt hàng nông sản tại các địa phương trong nước trong điều kiện mới và tăng cường hỗ trợ kết nối, thúc đẩy chế biến, tiêu thụ trong nước.
Tiếp tục tháo gỡ khó khăn tiêu thụ, XK nông sản tại địa phương sản xuất nông nghiệp trọng điểm và tại các cửa khẩu chính với Trung Quốc. Chuẩn bị tổ chức đoàn giao thương, quảng bá chuỗi cung ứng trái cây, thủy sản tại Trung Quốc.
Tiếp tục thúc đẩy mở cửa thị trường nông sản với các nước; kịp thời cung cấp các thông tin, các quy định thị trường, kiểm soát xuất nhập khẩu Việt Nam-Trung Quốc. Chuẩn bị nội dung làm việc song phương với Anh, Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Hàn Quốc. Xây dựng Đề án thúc đẩy XK nông lâm thủy sản đi EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản.
Thy Lê