Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV thuộc Hội đồng tư vấn cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ) vừa có báo cáo phân tích áp lực dòng tiền của doanh nghiệp (DN) và khuyến nghị chính sách giai đoạn cuối năm 2023 và một số định hướng tiếp theo.
Doanh nghiệp xây dựng và bất động sản gặp vấn đề lớn nhất về dòng tiền khi số ngày phải thu và số ngày tồn kho tăng lên nhiều lần. |
Cụ thể, Ban IV phân tích sơ bộ báo cáo tài chính của 1.579 doanh nghiệp (DN) niêm yết trên 3 sàn giao dịch chứng khoán ở Việt Nam (chia thành 10 ngành cụ thể) trong thời gian từ 2018 đến 6 tháng đầu năm 2023.
Kết quả, doanh thu các ngành giảm từ giữa năm 2022 đến nay, nghiêm trọng nhất là hai ngành bất động sản và xây dựng. Đến hết quý II/2023, tình hình vẫn chưa được cải thiện. Doanh thu 6 tháng đầu năm 2023 của 8/10 ngành đều thấp hơn cùng kỳ năm 2022, chỉ có ngành CNTT là tăng quy mô và ngành Hàng và dịch vụ tiêu dùng giữ nguyên quy mô doanh thu so với cùng kỳ.
Dù đã niêm yết nhưng DN Việt vẫn có đặc trưng là vốn chủ sở hữu mỏng, các hoạt động dựa nhiều trên vốn vay. Do đó, khi huy động vốn gặp khó khăn, DN sẽ gặp khó khăn ngay lập tức. Trong bối cảnh suy giảm đơn hàng, khó huy động vốn qua trái phiếu, cổ phiếu, khó tiếp cận vốn vay ngân hàng, dòng tiền trở thành vấn đề cấp thiết nhất của DN.
Ngành nào có tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu lớn thì càng gặp khó khăn (Xây dựng: 1,14 lần; Hàng và dịch vụ tiêu dùng: 0,78 lần; bất động sản: 0,62 lần và Vật liệu xây dựng: 0,62 lần).
Khi so sánh chi phí lãi vay so với lợi nhuận sau thuế của DN thì thấy tỷ lệ rất đáng kể: Năm 2022, ngành xây dựng có tỷ lệ chi phí lãi vay so với lợi nhuận cao nhất, lên đến 375%, tiếp đó là hàng và dịch vụ tiêu dùng 44,8% và bất động sản 40,2%. Điều này hàm ý, khi kinh doanh, doanh nghiệp chịu rủi ro chính nhưng thành quả được hưởng không nhiều, bị xói mòn do chi phí tài chính nên không có tích lũy để tái đầu tư.
Liên quan đến chi phí thuế, Ban IV cho biết, 1⁄4 nhóm DN có quy mô nhỏ nhất 3 sàn có áp lực lớn nhất. Năm 2020, tỷ lệ chi phí thuế/lợi nhuận sau thuế lên đến 51,5%. Năm 2022, đa số DN nhóm này đều lỗ.
Đặc biệt, DN xây dựng và bất động sản gặp vấn đề lớn nhất về dòng tiền khi số ngày phải thu và số ngày tồn kho tăng lên nhiều lần. Số ngày phải thu trung bình của DN xây dựng quý I/2022 là 463 ngày thì sang quý I/2023 lên đến 1165 ngày. Dù hết quý II/2023 giảm xuống còn 598 ngày nhưng cũng cho áp lực dòng tiền của DN xây dựng. Bên cạnh đó, số ngày tồn kho trung bình quý I/2023 lên đến 4.527 ngày, so với 661 ngày của quý I/2022.
Số ngày tồn kho trung bình của DN bất động sản quý I/2023 cũng lên đến 5.662 ngày, cá biệt có DN có số ngày tồn kho lên đến 54.334 ngày (hay với tình hình bán hàng như hiện tại, DN phải mất 149 năm mới bán hết giỏ hàng).
Căn cứ trên kết quả phân tích các DN niêm yết, đồng thời, xuất phát từ thực tiễn kinh doanh, sản xuất của DN và bối cảnh trong nước, thế giới hiện nay, Ban IV kiến nghị các chính sách trước mắt cần tập trung vào hỗ trợ dòng tiền thông qua hỗ trợ tiếp cận vốn và giãn, giảm chi phí cho DN.
Trong cơ cấu chi phí của DN, chi phí vận hành là trách nhiệm của DN và để cứu mình, nhiều DN đã phải chủ động cắt giảm chi phí, giảm quy mô hoạt động và quy mô lao động.
Các phần chi phí khác như chi phí lãi vay, chi phí thuế -phí, chi phí bảo hiểm xã hội... nằm trong không gian chính sách của Nhà nước. Do đó, Chính phủ có thể trọng tâm thực hiện các chính sách giúp DN tiếp cận vốn hiệu quả; giãn, giảm chi phí, tạo dòng tiền ngắn hạn ít nhất trong nửa cuối năm 2023 (hoặc nửa đầu năm 2024 tùy độ trễ của chính sách). Để thực hiện hiệu quả các biện pháp này, Ban IV nhấn mạnh, cần có cách tiếp cận vừa tổng thể về hỗ trợ DN vừa phải phân tích bài toán theo từng ngành, lĩnh vực cụ thể.
Riêng đối với lĩnh vực bất động sản, hệ thống ngân hàng có thể cân nhắc cho phép các DN cung cấp sản phẩm thuộc phân khúc phục vụ nhu cầu thiết yếu/ưu tiên (như hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội, khu công nghiệp, văn phòng...) được giãn nợ/giữ nhóm nợ theo tinh thần thông tư 02/2023/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước...
Thy Lê