Tại xã Hồng Minh, tỉnh Hưng Yên, HTX Hoa Sen Vân Đài là một ví dụ điển hình về việc khai thác triệt để giá trị của nông sản bản địa thông qua liên kết khoa học. Đơn vị này đã chủ động hợp tác với Viện Nghiên cứu Rau quả để đưa vào trồng những giống sen chất lượng cao, áp dụng quy trình canh tác hữu cơ, đặc biệt là phát triển mô hình kinh tế sen khép kín, đa giá trị.
Bứt phá bằng công nghệ
Mô hình này đã vượt ra khỏi phạm vi thu hoạch hoa hay hạt sen truyền thống. Dưới sự cố vấn của các nhà khoa học, HTX đã chuyển hướng sang phát triển du lịch nông nghiệp. Đây là bước hiệu quả, giúp nâng cao giá trị kinh tế, đồng thời tạo ra một chuỗi cung ứng ổn định, bền vững.
Còn tại Đan Phượng, Hà Nội, HTX Hoa Lan Đan Hoài đã định vị mình là một trong những mô hình trồng hoa lan công nghệ cao đầu tiên của Thủ đô. Thành công của HTX này là minh chứng rõ ràng nhất cho vai trò của sự hợp tác khoa học bài bản.
HTX Đan Hoài đã thiết lập mối liên kết chặt chẽ với nhiều đơn vị hàng đầu trong nước, bao gồm Viện Nghiên cứu Rau quả, Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, và cả các tập đoàn hoa quốc tế.
Sự hợp tác này tập trung vào xây dựng phòng nuôi cấy mô hiện đại để kiểm soát nguồn cây giống. Công nghệ này đảm bảo cây lan Hồ Điệp được nhân giống vô tính hoàn toàn sạch bệnh, đồng đều về mặt di truyền, giúp tăng năng suất và giảm thiểu rủi ro dịch bệnh vốn rất lớn trong canh tác hoa lan.
![]() |
|
HTX Vân Đài trồng nhiều giống sen khác nhau để tăng giá trị kinh tế. |
Ngoài ra, trong mối liên kết này còn giúp HTX ứng dụng công nghệ nhà lưới, nhà kính đạt tiêu chuẩn, hệ thống tưới tiêu tự động, và điều chỉnh ngoại cảnh qua cảm biến nhiệt máy tính. Điều này giúp hoa lan không bị phụ thuộc vào điều kiện thời tiết khắc nghiệt của miền Bắc, cho phép HTX chủ động được kế hoạch sản xuất, cung cấp hoa quanh năm, và kéo dài độ bền của hoa từ 45-60 ngày, vượt trội so với hoa nhập khẩu.
Nhờ đầu tư bài bản, HTX Đan Hoài đã mở rộng diện tích sản xuất lên tới hơn 12.500 m2 (hiện tại) và sản xuất trung bình khoảng 250.000 - 500.000 cây hoa mỗi năm, thu lãi hàng tỷ đồng. Điều này cho thấy, công nghệ chính là chìa khóa giúp HTX kiểm soát chất lượng, thực hiện truy xuất nguồn gốc (từ cuối năm 2017) và củng cố thương hiệu độc quyền “Flora Việt Nam”.
Từ nghiên cứu đến cánh đồng trị giá cao
Sự thành công của hai HTX nói trên cho thấy, KH&CN là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế tập thể. Tuy nhiên, quá trình chuyển giao công nghệ từ các nhà nghiên cứu đến nông hộ, HTX không phải không có rào cản.
Bởi quá trình hợp tác thường tuân thủ quy trình chặt chẽ. Chẳng hạn như các viện nghiên cứu thực hiện nghiên cứu, lai tạo giống, xây dựng quy trình sản xuất tối ưu (VietGAP, GlobalGAP) trong phòng thí nghiệm và vườn thử nghiệm, sau đó, ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ, cử chuyên gia xuống đồng ruộng, tổ chức tập huấn về quản lý, vận hành hệ thống nhà kính, và kỹ thuật chăm sóc cây trồng mới cho cán bộ và thành viên HTX.
Các đơn vị nghiên cứu còn tiếp tục cố vấn, giám sát chất lượng sản phẩm đầu ra, cùng HTX điều chỉnh quy trình cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu địa phương.
Tuy nhiên, rào cản lớn nhất nằm ở vốn đầu tư ban đầu. Công nghệ cấy mô, nhà kính thông minh, hệ thống tưới tiêu tự động… đều đòi hỏi chi phí lớn, vượt quá khả năng tự có của nhiều HTX. Việc chuyển đổi từ tư duy sản xuất truyền thống sang vận hành công nghệ cũng đòi hỏi nâng cao trình độ kỹ thuật của thành viên.
Từ thực tế của hai HTX Đan Hoài và Vân Đài cho thấy, thành công của HTX cũng một phần nhờ vào sự hỗ trợ tài chính và chính sách từ Nhà nước.
![]() |
|
Tiếp cận các chương trình, dự án giúp HTX Đan Hoài có thêm nguồn lực để ứng dụng khoa học công nghệ. |
Ngay như HTX Đan Hoài từng nhận được sự hỗ trợ đầu tư từ Sở KH&CN tỉnh Hà Tây (cũ) giai đoạn 2006-2009 cho dự án “Nghiên cứu tổ chức sản xuất và tiêu thụ hoa ứng dụng công nghệ cao”. Sau đó, Bộ KH&CN cũng chọn HTX Đan Hoài là đơn vị triển khai dự án thuộc Chương trình nông thôn miền núi.
Sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các chương trình, dự án KH&CN là cơ sở quan trọng để HTX vượt qua điểm nghẽn về vốn, kỹ năng, công nghệ… Đặc biệt, Luật Hợp tác xã 2023 đã cụ thể hóa 8 nhóm chính sách hỗ trợ, trong đó có chính sách hỗ trợ dành riêng cho HTX nông nghiệp nhằm tăng cường năng lực tiếp cận công nghệ và đổi mới sáng tạo. Điều này giúp nhiều HTX tin tưởng vào chính sách của Nhà nước trong phát triển kinh tế tập thể.
Giúp HTX vươn tầm quốc tế
Phạm vi ứng dụng KH&CN không chỉ dừng lại ở hai điển hình về sản xuất hoa sen và hoa lan. Hàng loạt HTX trên cả nước đã và đang tham gia các chương trình, dự án ở nhiều cấp độ, từ địa phương đến cấp quốc gia và hợp tác quốc tế, nhằm thúc đẩy ứng dụng KH&CN để làm nông nghiệp thông minh và chuyển đổi số.
Nhiều tỉnh thành đã triển khai các dự án hỗ trợ trực tiếp cho HTX nhằm thay đổi căn bản quy trình sản xuất. Chẳng hạn như tại Phú Thọ, Liên minh HTX tỉnh đã hỗ trợ nhiều HTX ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới như xây dựng mô hình chăn nuôi gà theo hướng an toàn sinh học (HTX nông nghiệp tổng hợp Yên Lập); xây dựng mô hình HTX ứng dụng KH&CN phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo chuỗi giá trị (HTX gà nhiều cựa Tân Sơn).
Hay các dự án hỗ trợ người dân, HTX tạo lập, quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể (“Mường Kịt” cho cam, quýt); tư vấn, hỗ trợ cấp chứng nhận VietGAP cho hàng trăm héc-ta lúa của các HTX (HTX dịch vụ nông nghiệp Vĩnh Lại, HTX dịch vụ nông nghiệp Cao Xá)…
Tại Ninh Bình, các dự án, chuyên đề về tập huấn về kỹ năng điện tử, ứng dụng chuyển đổi số, áp dụng hệ sinh thái quản lý mã số, mã vạch để nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc cũng được thực hiện. Tiêu biểu là ứng dụng cổng thông tin egap.vn giúp HTX Nho mẫu đơn Đồng Du ghi chép nhật ký canh tác bằng điện thoại thông minh.
Hay tại Vĩnh Long, nhiều HTX nông nghiệp đã chủ động đầu tư máy móc, công nghệ phục vụ sản xuất. Điển hình là HTX Dịch vụ nông nghiệp Tân Phú tập hợp bà con trồng sầu riêng theo hướng VietGAP, liên kết với doanh nghiệp từ sản xuất đến tiêu thụ, tạo ra sản phẩm chất lượng ổn định quanh năm.
Những hỗ trợ này không chỉ cung cấp công cụ mà còn là sự tri thức hóa người nông dân, giúp họ quản trị HTX, hạch toán, kê khai thuế điện tử, và quảng bá thương mại số.
Không dừng lại ở đó, nhiều HTX mong muốn tiếp cận công nghệ, tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ xuất khẩu. Do đó, hợp tác quốc tế đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cho khu vực kinh tế tập thể.
Nắm bắt được điều này, nhiều bộ, ngành đã không ngừng đẩy mạnh hợp tác quốc tế, hỗ trợ các HTX trong việc chuẩn hóa quy trình và kết nối đối tác nước ngoài. Tiêu biểu là việc Liên minh HTX Việt Nam đã hợp tác với Trung tâm Chứng nhận Halal Quốc gia (HALCERT) – đơn vị trực thuộc Trung tâm Chứng nhận Phù hợp (QUACERT), Bộ Khoa học và Công nghệ để hỗ trợ các HTX sản xuất theo tiêu chuẩn Halal và xuất khẩu sang các thị trường có tiềm năng.
Hay Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp, Thực phẩm và Hàng hải Ireland (DAFM) đã tăng cường hợp tác nhằm phát triển nông nghiệp xanh, an toàn, thích ứng biến đổi khí hậu. Các chương trình này tập trung vào trao đổi kiến thức về phát triển HTX nông nghiệp thực phẩm, xây dựng năng lực quản lý trẻ, và ứng dụng công nghệ, quy trình sản xuất bền vững cho HTX.
Việc hợp tác với cơ chế liên kết, hỗ trợ khu vực kinh tế tập thể tiếp cận các dự án, nguồn vốn… của các ban ngành đang và sẽ giúp các HTX tháo gỡ những nút thắt trong sản xuất kinh doanh, từ đó đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế một cách thuận lợi.
Minh Nhương

