Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 tổ chức mới đây, TS Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng ban Chính sách, Chiến lược Trung ương tổng kết, nhìn lại bức tranh năm 2025 Việt Nam đã chủ động, quyết liệt, vững vàng vượt qua những cơn gió ngược.
GDP dự kiến 2025 và 3 kịch bản tăng trưởng 2026 - 2030
![]() |
|
GDP 2025 dự kiến tăng trưởng trên 8%. |
Các tính toán của nhóm nghiên cứu cho thấy, tăng trưởng kinh tế năm 2025 dự kiến đạt mức 8%, Việt Nam trở thành quốc gia tăng trưởng cao nhất khu vực và tăng trưởng so với nhiều nước trên thế giới.
Trong đó, nông nghiệp tăng trưởng tích cực, ước đạt mức 3,92%, đóng góp 0,41 điểm %. Công nghiệp chế biến chế tạo phục hồi tốt, tăng trưởng 9,7%, đóng góp 2,34 điểm % trong tăng trưởng, dẫn dắt tăng trưởng toàn nền kinh tế nhờ xuất khẩu và đầu tư tăng mạnh. Khu vực dịch vụ tiếp tục đà phục hồi, trong đó một số ngành, lĩnh vực đạt tăng trưởng 2 con số. Lĩnh vực xây dựng tăng trưởng mạnh, đạt khoảng 11%, nâng mức đóng góp vào tăng trưởng lên 0,73 điểm% nhờ hàng loạt các dự án hạ tầng lớn được thúc đẩy triển khai.
Các yếu tố về phía cầu như tiêu dùng cuối cùng, xuất nhập khẩu, tích luỹ tài sản cố định cũng tăng trưởng ấn tượng.
Dòng vốn đầu tư tăng mạnh. Đầu tư tư nhân tăng khoảng 9,2% - mức cao nhất trong 5 năm. Dòng vốn đầu tư công lớn. Ước tính mức đầu tư công tăng cao năm 2025 giúp gia tăng khoảng 0,587 điểm % tăng trưởng kinh tế. Đầu tư FDI liên tục tạo kỷ lục, đồng thời chất lượng đầu tư tốt hơn với khoảng 70% vốn đăng ký mới tập trung vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới, năng lượng tái tạo.
Năng suất lao động tăng nhanh, đóng góp tới 6,9 điểm % vào tăng trưởng GDP. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) tăng cao, đạt tốc độ 3,76%, đóng góp khoảng 47% trong tăng trưởng kinh tế 2025. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam liên tục được cải thiện; xếp hạng chỉ số GII vị trí 44/133 quốc gia, đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á.
Đáng chú ý, lạm phát được kiểm soát, song tỷ giá chịu nhiều áp lực. Lạm phát lõi, CPI bình quân dự kiến ở mức 3,2 - 3,5%, được hỗ trợ chủ yếu bởi xu hướng giảm giá dầu và giảm áp lực lạm phát toàn cầu. Nợ công cũng giảm từ 44,3% GDP năm 2020 xuống còn khoảng 35 - 36% năm 2025.
Tuy nhiên tỷ giá USD/VND chịu nhiều áp lực. Tỷ giá tăng tương đối mạnh so với các năm trước có thể ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát và sức chống chịu của nền kinh tế. Dư nợ tín dụng đến cuối năm 2025 có thể tiệm cận mức 140 - 145% GDP (cuối năm 2024 là 134%), tiềm ẩn một số rủi ro.
Trên cơ sở dự báo kinh tế thế giới, các chuyên gia nhận định giai đoạn tới Việt Nam có cơ hội đón nhận dòng dịch chuyển vốn đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt là dòng vốn chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ và năng lượng bền vững. Xu hướng chuyển đổi xanh và phát triển bền vững thúc đẩy gia tăng nhu cầu về năng lượng tái tạo và thân thiện môi trường, mở ra cơ hội để Việt Nam phát triển các ngành công nghiệp xanh, năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Ngoài ra, cạnh tranh chiến lược thúc đẩy các quốc gia tìm kiếm đối tác mới tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, không chỉ lắp ráp mà còn ở các khâu có giá trị cao hơn như R&D, thiết kế, marketing.
Tuy nhiên 5 thách thức lớn đã được chỉ ra. Mô hình tăng trưởng thương mại theo chiều rộng khiến Việt Nam chịu rủi ro cao từ rào cản thuế quan của các nước. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu. Việt Nam cũng đối mặt nguy cơ bị bỏ lại phía sau nếu quá trình “bắt nhịp” công nghệ không thành công. Ngoài ra còn có thách thức về nhu cầu huy động nguồn tài lực rất lớn và một số thách thức mang tính cấu trúc của nền kinh tế.
3 kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2026 - 2030 cho thấy, với kịch bản cơ sở, tăng trưởng GDP 7,5%, GDP bình quân đầu người 7.500 USD, lạm phát trên 4%. Ở kịch bản chuyển tiếp, tăng trưởng GDP 8,5%; GDP bình quân đầu người 7.800 USD, lạm phát trên 4%. Cuối cùng, kịch bản mục tiêu, tăng trưởng GDP 10%; GDP bình quân đầu người 8.500 USD, lạm phát trên 4%.
![]() |
|
3 kịch bản tăng trưởng GDP 2026 - 2030. |
Từ “vượt gió ngược” đến bứt phá
Phát biểu chỉ đạo, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết Việt Nam kiên định, nhất quán tập trung thực hiện 2 mục tiêu chiến lược 100 năm, nhấn mạnh xác định rõ: Ổn định là pháo đài bất khả xâm phạm; phát triển nhanh, bền vững là động cơ vĩnh cửu, không có điểm dừng; giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc của người dân là mục tiêu cao nhất; không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng đơn thuần.
Thời gian tới, xác định khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh sẽ đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Thủ tướng nhấn mạnh, mục tiêu tăng trưởng 2 con số của Việt Nam là có nền tảng, có dư địa và khả thi.
Theo nhóm nghiên cứu của Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, để hiện thực hoá mục tiêu tăng trưởng 2 con số, giải pháp chiến lược thứ nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.
Đánh giá các kịch bản lạm phát cho thấy lạm phát (và kỳ vọng lạm phát) ổn định ở mức vừa phải là một điều kiện quan trọng để duy trì tăng trưởng nhanh và bền vững. Đặc biệt, kịch bản thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 10%/năm đòi hỏi lạm phát duy trì ổn định khoảng 4%/năm. Lạm phát cao sẽ làm giảm ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế và người dân không được hưởng thành quả tương xứng từ tăng trưởng kinh tế. Trong khi ổn định lạm phát sẽ tạo điều kiện cho các cải cách thể chế kinh tế và giúp tín hiệu phân bổ nguồn lực trên thị trường ít bị “méo mó”, đồng thời thúc đẩy phát triển dịch vụ tài chính - ngân hàng.
Thứ hai, cần phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trên cơ sở “phân vai” cụ thể hơn. Chính sách tài khóa tập trung vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy giải ngân đầu tư công vào các lĩnh vực trọng điểm, tạo lan tỏa cao, dự án liên kết vùng, tăng chi chuyển giao hỗ trợ tiêu dùng của người dân, giảm thuế hỗ trợ cho các ngành gắn với chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, hỗ trợ tiêu dùng của hộ gia đình.
Chính sách tiền tệ linh hoạt, chặt chẽ, tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và phối hợp hiệu quả với chính sách tài khóa; truyền thông chính sách về ổn định lạm phát và ổn định tỷ giá; điều tiết cung tiền hợp lý gắn với mặt bằng lãi suất phù hợp; duy trì tăng trưởng tín dụng hợp lý gắn với phân bổ tín dụng tập trung vào các ngành sản xuất; thử nghiệm có kiểm soát các cơ chế tín dụng cho các lĩnh vực mới (tín dụng xanh, tín dụng dựa trên quyền sở hữu trí tuệ); rà soát và tăng cường tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước,...
Các chuyên gia cũng chỉ ra cần thúc đẩy huy động thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ và cổ phiếu; phát triển ngành quỹ và những huy động khác như thí điểm thị trường carbon, trung tâm tài chính quốc tế, thị trường tài sản mã hoá.
Bên cạnh đó, cần tháo gỡ vướng mắc về chính sách như đơn giản hoá thủ tục, đảm bảo hỗ trợ nhanh, gọn cho doanh nghiệp; giải quyết các dự án tồn đọng, dự án quốc gia; gỡ vướng cho phát triển khoa học công nghệ; làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới...
Ông Nguyễn Thanh Nghị, Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Đạt mục tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2026 - 2030 từ 10%/năm trở lên là một thách thức lớn, yêu cầu cao, đòi hỏi phải định hình tư duy phát triển và xác lập mô hình tăng trưởng mới. Đó là việc tạo lập được các động lực tăng trưởng mới gắn với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; đồng thời có giải pháp, tổ chức triển khai quyết liệt, hiệu quả để phát huy tốt nhất, làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống.
PGS.TS Bùi Quang Tuấn, Phó Chủ tịch Hội khoa học kinh tế Việt Nam Giai đoạn 2026 - 2030 là giai đoạn tăng trưởng quan trọng nhất kể từ sau thời kỳ đổi mới tới nay. Nếu Việt Nam không đổi mới mô hình tăng trưởng mà tiếp tục dựa vào các động lực tăng trưởng cũ, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, vốn và lao động giá rẻ thì khó có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số. Những động lực này đã và đang dần cạn kiệt, không đủ sức đảm bảo tăng trưởng bền vững và nâng cao giá trị gia tăng.
Ông Tim Evans, Tổng giám đốc HSBC Việt Nam Để phục vụ cho hành trình tăng trưởng trong tương lai, Việt Nam cần đa dạng hoá nguồn vốn và thực tế cũng đã làm những điều đó nhưng cần phải làm mạnh mẽ hơn nữa. Việt Nam có thể khai phá những tiềm năng của thị trường vốn, tín dụng, trái phiếu,.. để đa dạng hoá nền tảng huy động vốn đầu tư, tìm kiếm các nhà đầu tư ở tất cả các lớp tài sản khác nhau sẽ xuất hiện tại Việt Nam. |
Đỗ Kiều




