Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, XK chè trong 3 tháng đầu năm 2016 đạt 23.000 tấn, với 35 triệu USD, giảm 5% về khối lượng và giảm 10,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá chè XK bình quân 1.554,2 USD/tấn, giảm 8,3% so với năm 2015.
Việt Nam là một trong năm quốc gia XK chè nhiều nhất thế giới nhưng giá bán sản phẩm thường thấp hơn 50 - 60% so với giá chè bình quân trên thế giới. Thương hiệu chè Việt chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Gia tăng giá trị nằm ở chế biến
Nói về vấn đề của ngành chè, ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục XNK (Bộ Công Thương), cho rằng thị trường chè trên thế giới nổi tiếng với thương hiệu Lipton. Họ nghiên cứu và nắm bắt rất sâu thị hiếu của khách hàng. Chẳng hạn chè sang Nga vị đặc trưng thế nào, chè sang Sri Lanka hương vị ra sao. Theo ông Hải, chè của Việt Nam xuất nhiều, nhưng chỉ được coi là một trong nhiều nguyên liệu để tạo nên những thương hiệu chè nổi tiếng thế giới. Bởi nhà sản xuất nước ngoài luôn có một công thức, một bí quyết pha trộn nhất định, từ những nguyên liệu chè ở những vùng miền khác nhau. Chè Việt Nam chỉ được coi là nguyên liệu, gần như không có tên tuổi trên thị trường thế giới.
Câu chuyện tương tự cũng diễn ra với ngành cà phê. Ông Hải cho biết ngành cà phê của chúng ta chỉ sau Brazil, nhưng giá trị gia tăng của chúng ta rất thấp. Bất cứ tách cà phê nào trên thế giới đều có sự pha trộn, nhưng tỷ trọng cà phê Việt Nam rất ít. Nếu như giá trị một tách cà phê khoảng 1 Euro, thì tỷ lệ cà phê trong tách pha trộn đó chỉ chiếm vài cents, chúng ta chưa có định vị thương hiệu.
Trà, cà phê là hai trong số nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam cùng chịu chung số phận “hẩm hiu” không tên tuổi, giá trị XK thấp ra thị trường thế giới. Sản phẩm đơn điệu, tương đối giống nhau giữa các DN, chủ yếu là sản phẩm thô, hầu như không có thương hiệu và bị thương hiệu nước ngoài lợi dụng.
Có đến 90% nông sản Việt Nam XK chỉ ở dạng thô. Sau khi nhập về, các DN nước ngoài phân loại, chế biến sâu, sử dụng bao bì hiện đại, bắt mắt và sử dụng thương hiệu của họ để đưa ra hệ thống phân phối toàn cầu. Hơn 80% nông sản của nước ta được bán ra thị trường thế giới thông qua các thương hiệu nước ngoài.
Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do sự kém phát triển của công nghiệp chế biến. Không có nhiều DN đầu tư vào chế biến nông sản, trong khi đầu tư vào lĩnh vực chế biến được coi là lối thoát cho nông sản Việt Nam. Theo Bộ NN&PTNT, cả nước có hơn 6.000 DN nông lâm thủy sản, nhưng chỉ có khoảng 2.000 DN đầu tư vào chế biến (chiếm khoảng 30%).
Đại diện Cục Chế biến nông - lâm - thủy sản và Nghề muối (Bộ NN&PTNT), cho biết công nghiệp chế biến ở ta mới dừng ở mức độ gia công nguyên liệu cho quá trình chế biến tinh ở quốc gia khác; quy mô công nghiệp chế biến còn nhỏ, công nghệ thiết bị lạc hậu.
Đây cũng là nguyên nhân làm cho giá trị hàng nông sản Việt Nam thường thấp hơn từ 15 đến 50% so với sản phẩm cùng loại của các nước khác. Ngoài ra, do phụ thuộc vào XK thô, nên giá cả nông sản bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào thị trường bên ngoài.
![]() |
Tình trạng DN “chết đói” ngay trên vùng nguyên liệu xảy ra không hiếm
Ngại đầu tư vì nhiều rào cản
Chế biến là yếu tố then chốt, quyết định sự thành bại của DN, nhưng tại sao các DN vẫn nghi ngại khi đầu tư vào các nhà máy chế biến? Một trong số nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do quy mô sản xuất của chúng ta quá manh mún, nhỏ lẻ. Bình quân mỗi nông hộ chỉ sở hữu khoảng 0,5ha đất canh tác. Nông dân lại canh tác theo thói quen, mỗi nơi mỗi kiểu, tạo ra sự khác biệt, không đồng đều trong chất lượng sản phẩm.
Nguyên liệu được các DN thu mua từ nông dân chủ yếu vẫn qua thương lái, mua đứt bán đoạn, thiếu tính bền vững. Liên kết giữa nông dân và DN hết sức lỏng lẻo, nhiều vụ việc đã cam kết mua bán theo hợp đồng nhưng vẫn diễn ra tình trạng lật kèo của nông dân hay DN, chỉ vì một chút giá.
Tình trạng DN “chết đói” ngay trên vùng nguyên liệu xảy ra không hiếm. Hay chuyện DN sợ đơn hàng “khủng” chỉ vì khó gom đủ nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu, cũng là chuyện bi hài của DN chế biến.
Bên cạnh đó, thủ tục rườm rà cũng là rào cản khiến DN ngại đầu tư vào lĩnh vực chế biến. Ông Trần Đức Hạnh - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Đức Hạnh, kiêm Tổng Giám đốc công ty Thuốc thú y Maphavet, chia sẻ, DN nông nghiệp tại Việt Nam hiện gặp một số rào cản, đặc biệt là thủ tục hành chính rất cồng kềnh. Sản xuất chế biến cà chua có đặc thù sản phẩm rất nhanh hỏng. Tuy nhiên, nếu muốn XK, phải qua rất nhiều các thủ tục cấp phép, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của DN, vì nếu không làm kịp, sản phẩm rất có thể bị hư hỏng.
Nhiều ý kiến cho rằng muốn hút DN đầu tư vào chế biến, Nhà nước cần có nhiều chính sách đồng bộ, vừa loại bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, vừa tạo điều kiện về đất đai, vốn, công nghệ cho các DN “hứng thú” hơn việc trong đầu tư vào chế biến. Cần có những chính sách minh bạch, nhất quán, lâu dài, để nhà đầu tư yên tâm gắn với chế biến.
Bên cạnh đó, phải giải bài toán thiếu đói nguyên liệu bằng chính sách cụ thể, rõ ràng, để ràng buộc, gắn kết một cách bền chặt mối liên kết giữa DN và nông dân theo hướng nguyên tắc, bình đẳng và kỷ cương, trong đó tính pháp lý của mối quan hệ được đặt lên hàng đầu.
Thu Hường