Trả lời Thời báo Kinh Doanh, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhấn mạnh đây là giải pháp rất quan trọng để giúp ngành logistics Việt Nam tận dụng được cơ hội từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA).
Ông đánh giá thế nào về tác động của EVFTA tới các doanh nghiệp logistics Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực bởi dịch Covid-19?
- Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường logistics của EU trong năm 2019 đạt 1,150 tỷ Euro, dự báo đến năm 2024 đạt 1,345 tỷ Euro. Với đà phát triển như vậy, EVFTA chắc chắn đem tới nhiều cơ hội lớn cho ngành logistics Việt Nam. Trong đó, có cả các cơ hội về nguồn cung, cầu cho dịch vụ này cũng như các điều kiện để dịch vụ này có thể thực hiện hiệu quả.
Đầu tiên, đó là cơ hội gia tăng quy mô thị trường, xuất phát từ nguồn cầu lớn đối với hoạt động logistics. Hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai bên càng nhộn nhịp, thị trường đối với dịch vụ logistics càng mở rộng, đặc biệt là dịch vụ logistics quốc tế.
Bên cạnh đó, EVFTA đem tới cơ hội tăng hiệu quả kinh doanh từ cải cách thủ tục hành chính. Các cam kết về thể chế và hàng rào phi thuế quan trong EVFTA sẽ tạo ra sức ép lớn buộc Chính phủ phải cải cách trong nhiều lĩnh vực liên quan đến hoạt động logistics, đặc biệt là hải quan, kiểm tra chuyên ngành.
Việc thực hiện các cam kết này sẽ giúp cải thiện đáng kể trong thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa - yếu tố có tác động trực tiếp tới hiệu quả của nhiều hoạt động logistics, kể cả vận tải và hỗ trợ vận tải.
Đồng thời, EVFTA cũng đem tới cơ hội giảm chi phí kinh doanh, giảm tình trạng thuê ngoài. Các cam kết loại bỏ thuế quan của Việt Nam cho các phương tiện vận tải, các loại máy móc, thiết bị công nghệ phục vụ hoạt động logistics từ EU là cơ hội để doanh nghiệp logistics có thể mua các sản phẩm phục vụ sản xuất với giá hợp lý.
Ngoài ra, ngành logistics còn có cơ hội thu hút đầu tư từ EU, tận dụng kinh nghiệm, kỹ năng quản trị, nguồn vốn, mạng lưới sẵn có của đối tác khi liên doanh với đối tác EU.
Như vậy, cơ hội đối với ngành logistics khi Việt Nam tham gia EVFTA là rất lớn. Vậy, vì sao Bộ Công Thương đánh giá logistics sẽ chịu sức ép cao khi EVFTA có hiệu lực?
- Nhận định trên được đưa ra là vì EU vốn rất mạnh về logistics. Họ có các công ty đa quốc gia, các đội tàu lớn hiện đại, chiếm thị phần đáng kể trên thị trường logistics thế giới.
Trong bảng xếp hạng Chỉ số năng lực logistics (LPI) năm 2018 của Ngân hàng Thế giới, Đức đứng vị trí đầu tiên, các nước EU chiếm 4 trong top 5 vị trí đầu bảng (Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Bỉ), chiếm 14 trong top 20 vị trí đầu bảng.
Lo ngại khả năng tiếp cận thị trường EU của doanh nghiệp logistics không lớn (Ảnh: TL) |
Hiện, nhiều doanh nghiệp logistics mạnh của EU đã có hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, dù mức mở cửa của Việt Nam trong logistics theo WTO còn rất hạn chế.
Sau EVFTA, các cam kết mở cửa mạnh hơn, cạnh tranh từ các doanh nghiệp này với doanh nghiệp Việt Nam sẽ còn lớn hơn nữa. Tuy nhiên, cạnh tranh được dự báo sẽ chỉ gia tăng chủ yếu ở các lĩnh vực dịch vụ logistics mới mở cửa thêm, còn với các lĩnh vực đã mở theo WTO, cạnh tranh có thể gia tăng nhưng không đáng kể.
Về mặt lý thuyết, EU cũng mở cửa thị trường dịch vụ logistics cho các doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù vậy, trên thực tế, khả năng tiếp cận thị trường EU của doanh nghiệp logistics không lớn.
Do đây là thị trường đã có sẵn các đối thủ mạnh, khách hàng EU đòi hỏi cao về chất lượng dịch vụ và các ràng buộc pháp lý gián tiếp (các điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics).
Vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh, theo ông, ngành logistics cần phải cải thiện những điểm nào?
- Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành logistics ở nước ta hiện nay, tôi cho rằng Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý logistics phù hợp xu thế phát triển hiện nay của Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, một cửa quốc gia, một cửa ASEAN, điện tử hóa khai hải quan, ứng dụng thương mại điện tử,… nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu và doanh nghiệp logistics giảm thiểu chi phí.
Đồng thời, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về logistics của Ủy ban 1899.
Khẩn trương xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển và các chính sách hỗ trợ cho ngành logistics như: Chiến lược phát triển đội tàu biển Việt Nam; chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam; chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ cho các doanh nghiệp,...
Ưu tiên đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng lớn của ngành logistics (hoàn thiện cảng, đường bộ, đường sắt, đường không, kho bãi, trang thiết bị và các định chế có liên quan,...).
Cùng với đó, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam cần tăng cường kết nối các doanh nghiệp trong ngành hợp tác với nhau, chia sẻ các lợi thế nhằm giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh ngành logistics.
Báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) đã chỉ ra, chi phí logistics ở Việt Nam rất cao, ở mức 20% GDP trong khi các nước khác chỉ từ 9 - 14%.
Đồng thời, hiệp hội, doanh nghiệp logistics cần chủ động liên kết với các học viện, trường đại học, cao đẳng nghề trong công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi thực tiễn của ngành logistics trong bối cảnh mới.
Xin cám ơn ông!
Lê Thúy (thực hiện)