“Chúng tôi đến đây là để đồng hành với Việt Nam trên con đường phát triển điện gió ngoài khơi trong dài hạn”, ông Henrik Scheinemann, đồng Giám đốc Điều hành của Tập đoàn Copenhagen Offshore Partners (COP) nói, đồng thời nhấn mạnh điều quan trọng là Việt Nam nên tập trung vào việc khởi động ngành năng lượng tái tạo, một ngành công nghiệp đã được chứng minh là có hiệu quả cao...
Nhà đầu tư cần được đảm bảo giá mua điện
Ông Henrik Scheinemann nhìn nhận, Việt Nam có khả năng và sẽ thành lập ngành công nghiệp này. Giờ là lúc thúc đẩy và cho phép thực hiện các dự án thí điểm và ban hành khung pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện để các nhà đầu tư và phát triển dự án chia sẻ bài học nhằm xây dựng chuỗi cung ứng địa phương và giải quyết "cơn khát" năng lượng xanh ngày càng tăng của Việt Nam.
Tính đến cuối năm 2021, tổng công suất đăng ký đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam khoảng 154 GW. |
Tập đoàn Copenhagen Infrastructure Partners (CIP) đang phát triển dự án trang trại điện gió ngoài khơi La Gàn 3,5 GW ngoài khơi bờ biển tỉnh Bình Thuận. Với công suất tiềm năng 3.5 GW, Dự án trang trại điện gió ngoài khơi La Gàn là một trong những dự án quy mô lớn đầu tiên tại Việt Nam. Dự án này có tiềm năng nâng cao vị thế của Việt Nam trong lĩnh vực năng lượng tái tạo trong khu vực và trên thế giới.
Tập đoàn CIP cho biết, đơn vị này đã tiếp tục ký nhiều Biên bản Ghi nhớ với các nhà cung cấp và cảng biển tại Việt Nam, đồng thời thiết lập Thỏa thuận hợp tác với Công ty Xuân Cầu (Việt Nam) để thúc đẩy một số cơ hội phát triển điện gió ngoài khơi miền Bắc Việt Nam.
Từ quá trình thực tiễn đầu tư, ông Hespes Holst, đại diện Tập đoàn CIP, kiến nghị Chính phủ Việt Nam lựa chọn các khu vực phát triển điện gió ngoài khơi dựa trên mức độ của các hoạt động phát triển đã thực hiện cho khu vực đó. Trong đó, giai đoạn 1 là độc quyền khảo sát và giai đoạn 2 là thí điểm dự án và mua bán điện.
Trong giai đoạn 2, tập đoàn CIP đề xuất nên xem xét giá bán điện và mức giá trần cần được đưa ra, tuy nhiên việc đưa ra giá trần cũng cần xem xét việc điện gió ngoài khơi là một ngành mới phát triển. Đồng thời, các doanh nghiệp cần được sự ủng hộ của UBND tỉnh và các văn bản chấp thuận đề nghị bổ sung quy hoạch từ tính liên quan.
"Khi được lựa chọn thực hiện dự án, nhà đầu tư được đảm bảo giá mua điện, công suất kết nối lưới điện (thời gian nối lưới) và các đảm bảo khác, cũng như báo cáo thường xuyên cho Bộ Công Thương", ông Hespes Hols chia sẻ.
Tháo gỡ khó khăn rào cản pháp lý
Trong khi đó, ông Mark Hutchinson, Chủ tịch Nhóm công tác Đông Nam Á của Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC), chia sẻ nhiều nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư hàng tỷ USD giúp Việt Nam phát triển điện gió ngoài khơi.
“Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã có động thái tích cực trong tiến trình phát triển điện gió nhưng còn nhiều việc phải làm. Chúng ta cần giải pháp sớm, không thể chờ khi tất cả chính sách ban hành mới phát triển điện gió ngoài khơi. Như thế là quá chậm”, ông Mark Hutchinson cho hay để phát triển một dự án điện gió ngoài khơi cần thời gian 6 – 8 năm.
Theo đó, điều nhà đầu tư quan tâm lúc này là cơ chế thí điểm, đồng thời cần phát triển thêm cơ chế đấu thầu. Điều đó đồng nghĩa, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư... cần sửa đổi và tích hợp khái niệm điện gió ngoài khơi trong Luật Điện lực sửa đổi.
Vị chuyên gia đến từ GWEC cũng đặt ra những trăn trở mà nhà đầu tư đang quan tâm như liệu Bộ TN&MT có cho phép xác định và phân bổ một số khu vực biển dành riêng cho các cơ chế phát triển nhanh, giai đoạn thí điểm điện gió ngoài khơi hay không? Bộ Công Thương và các bộ khác sẽ cùng phối hợp đưa ra hướng dẫn về giá cho thỏa thuận mua bán điện. Tất cả những nội dung này có thể được Thủ tướng ban hành trong một Nghị định đặc biệt.
“Việc phát triển 7GW điện gió ngoài khơi là rất quan trọng đối với Việt Nam vì mục tiêu Net Zero và vì an ninh năng lượng dài hạn của đất nước. Nếu triển khai phương thức đấu thầu, sẽ cần ít nhất 2 năm để tháo gỡ các rào cản pháp lý và ban hành các biện pháp chính sách”, ông Mark Hutchinson nêu vấn đề.
Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, cũng chỉ ra những bài toán lớn mà ngành điện gió ngoài khơi tại Việt Nam phải đối mặt, bao gồm: Tính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ; nguồn vốn lớn và dài hạn. Đồng thời, nhiều vấn đề cần phải làm rõ như: quy hoạch, cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng, quy định cho thuê, cấp phép, quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định vận hành, cơ chế giá điện và hợp đồng mua bán điện và các quy định về vận hành hệ thống điện, hệ thống cảng biển, phát triển chuỗi cung ứng…
Trước thực tế trên, TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, cho biết Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đang giám sát chuyên đề về phát triển năng lượng, đánh giá mục tiêu phát triển năng lượng. Trong đó, sẽ nêu lên những tồn tại hạn chế, nguyên nhân, đâu là do quy định pháp luật, đâu là do tổ chức thực hiện, từ đó nâng cao hiệu quả chính sách pháp luật về phát triển năng lượng, đảm bảo mục tiêu an ninh năng lượng, trong đó có phát triển các dự án điện gió.
Tính đến cuối năm 2021, tổng công suất đăng ký đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam khoảng 154 GW. Dự thảo Quy hoạch điện VIII đặt ra mục tiêu sẽ phát triển khoảng 16.121 MW điện gió trên bờ và gần bờ, khoảng 7.000 MW điện gió ngoài khơi vào năm 2030. Đến năm 2045, công suất đặt điện gió ngoài khơi dự kiến đạt khoảng 64.500 MW. |
Lê Thúy