Luật BVMT 2014 số 55/2014/QH13 gồm 20 chương và 170 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015. Luật BVMT 2014 đã cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp 2013, luật hóa chủ trương của Đảng, các chính sách mới về BVMT, mở rộng và cụ thể hóa một số nội dung về BVMT nhằm đáp ứng yêu cầu BVMT trong giai đoạn mới trên tinh thần kế thừa các nội dung của Luật BVMT 2005, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật BVMT 2005.
Luật hóa một số nội dung quan trọng
Luật BVMT 2014 đã luật hóa một số nội dung quan trọng của Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Kế hoạch xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng”. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và trách nhiệm của các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ TN&MT và UBND cấp tỉnh.
Luật BVMT 2014 tăng 5 chương và 34 điều, trong đó có những nội dung đã được cụ thể hóa với nhiều điểm mới so với Luật BVMT 2005.
Luật BVMT 2014 đưa ra quy định và bổ sung các hành vi mới bị cấm như: hành vi vận chuyển chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không đúng quy trình kỹ thuật về BVMT, thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường, các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào không khí, đưa vào nguồn nước hóa chất độc hại, chất thải, vi sinh vật chưa được kiểm định và tác nhân độc hại khác đối với con người và sinh vật, phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái quy định về quản lý môi trường.
Luật BVMT 2014 quy định mục riêng về BVMT đất, bao gồm 3 điều (Điều 59 - 61), trong đó có quy định chung về BVMT đất, quản lý môi trường đất và kiểm soát ô nhiễm môi trường đất. Theo đó, mọi hoạt động có sử dụng đất phải xem xét đến môi trường đất và giải pháp BVMT đất; các tổ chức, cá nhân được giao sử dụng đất phải có trách nhiệm BVMT đất; gây ô nhiễm môi trường đất phải có trách nhiệm xử lý, cải tạo và phục hồi môi trường đất.
Theo Ts. Vũ Ngọc Hưng - Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường (Bộ Công Thương), do có sự thay đổi của Luật BVMT năm 2014, một số quy định mới về BVMT đã thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
![]() |
Trách nhiệm của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã được quy định rõ
Thay đổi để phù hợp thực tế
Bên cạnh đó, có một số vướng mắc, phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện, như: thiếu quy định điều chỉnh các hành vi đối với hoạt động nhập khẩu, phá dỡ tàu biển đã qua sử dụng và các hành vi liên quan đến quản lý chất thải và phế liệu, đánh giá tác động môi trường, kế hoạch BVMT, phương án cải tạo và phục hồi môi trường và một số hành vi khác cũng đã thay đổi.
Cộng với một số quy định về hành vi vi phạm còn rộng, chưa có tính răn đe đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm có mức độ nghiêm trọng, khối lượng xả thải lớn và chưa hợp lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm ở mức độ ít nghiêm trọng, chưa đảm bảo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, chưa bảo đảm công bằng trong quá trình xử phạt.
Ngoài ra, mức xử phạt quy định một số hành vi còn thấp, chưa tương xứng với hành vi vi phạm, chưa bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa ô nhiễm và thực tế, nhiều DN chịu nộp phạt thay cho việc xử lý ô nhiễm…
“Để bảo đảm phù hợp với các quy định của Luật BVMT năm 2014 và phù hợp với tình hình thực tế, thực hiện Chương trình công tác của Chính phủ năm 2015, Bộ TN&MT được giao chủ trì xây dựng Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT, đã lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước và hiện đang được trình Chính phủ”, Ts. Vũ Ngọc Hưng cho biết.
Ngọc Cầm