Trong tuần thứ 10 năm 2024 (từ 4-10/3/2024), Cục Điều tiết điện lực, Bộ Công Thương cho biết tỷ lệ huy động nguồn điện cao nhất là nhiệt điện than (509,8 triệu kWh/ngày); tiếp đến là năng lượng tái tạo (118,3 triệu kWh/ngày); thủy điện huy động khoảng 103,5 triệu kWh/ngày và sau cùng là nhiệt điện khí đạt khoảng 80,5 triệu kWh/ngày.
Bộ Công Thương đã huy động cao nguồn nhiệt điện than. |
Theo Cục Điều tiết Điện lực, tính từ đầu năm đến nay, phụ tải điện quốc gia tăng trưởng khoảng 10,7% so với cùng kỳ năm 2023. Cụ thể phụ tải miền Bắc tăng 9,9%, miền Nam 12,7%, miền Trung là 8,3%.
Công suất cực đại trong tuần đạt 43.045,9 MW, cao hơn 858,1 MW so với tuần trước. Như vậy, công suất cực đại trong tuần đạt giá trị lớn nhất từ đầu năm đến nay và lớn hơn so với công suất cực đại từ đầu năm 2023 đến 10/3/2023 là 4.293 MW (Pmax giai đoạn từ đầu năm 2023 đến 10/3/2023 đạt 38.753 MW).
Lũy kế sản lượng phụ tải điện quốc gia từ đầu tháng 3 đến nay đạt 8.089 triệu kWh, từ đầu năm đến nay đạt 51.800 triệu kWh.
Mặc dù phụ tải tăng nhưng hệ thống điện vận hành an toàn, công tác cung cấp điện trong tuần tiếp tục được đảm bảo tốt, đảm bảo đủ nhu cầu điện cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như sinh hoạt của nhân dân.
Tại miền Bắc, Cục Điều tiết điện lực cho biết đã thực hiện điều hành linh hoạt, tiết kiệm các hồ thủy điện, nhất là các hồ có mực nước thấp, đồng bộ với các giải pháp thay đổi kết dây lưới truyền tải để huy động các nhà máy thủy điện phù hợp khả năng lấy nước hiệu quả của công trình thủy lợi đồng thời giữ nước cho phát điện nhằm đảm bảo cung cấp điện trong mùa nắng nóng năm 2024.
Từ ngày 18/02/2024, Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia (A0) đã triển khai giải pháp đặt các ràng buộc trong công tác lập lịch nhằm khai thác tối đa các nguồn nhiệt điện than miền Bắc và truyền tải trên các cung đoạn đường dây 500kV Trung - Bắc, cung đoạn đường dây 500kV Hà Tĩnh - Nghi Sơn 2 - Nho Quan với mục tiêu giữ nước các hồ thủy điện miền Bắc.
Từ 9 giờ 00 ngày 08/03/2024, A0 tiếp tục triển khai giải pháp đặt ràng buộc tối đa nhiệt điện than và tuabin khí để tiết kiệm hơn nữa các nguồn thủy điện, đặc biệt trong các chu kỳ không có yêu cầu cấp nước hạ du, tránh can thiệp trực tiếp thủy điện.
Đồng thời, tận dụng khả năng truyền tải để tiết kiệm thủy điện miền Bắc. Tại khu vực miền Trung và miền Nam, đã huy động các thủy điện theo tình hình thủy văn thực tế và mực nước kế hoạch tháng để đảm bảo cung ứng điện.
Theo thống kê về thủy văn cho thấy, từ đầu tháng 3 đến nay, tình hình nước về các hồ thủy điện ở miền Bắc có lưu lượng thấp, chỉ đạt khoảng 24 – 91% trung bình nhiều năm, trừ hồ Thác Bà có nước về đạt 111% cao hơn trung bình nhiều năm.
Miền Trung có 16/27 hồ có diễn biến nước thấp hơn nhiều so với trung bình nhiều năm (từ 16-95% trung bình nhiều năm) 11/27 hồ có nước về tốt (từ 101-223% trung bình nhiều năm), một số hồ có nước về rất tốt như A Lưới, Đak Re, Đak Đrinh, Sông Hinh.
Miền Nam ngoại trừ Đồng Nai 2, Hàm Thuận và Đa Nhim có nước về cao hơn trung bình nhiều năm, các hồ còn lại đều có nước về thấp hơn so với trung bình nhiều năm (từ 24-87% trung bình nhiều năm).
Thống kê cho thấy, sản lượng trung bình ngày trong tuần của nhiệt điện than đạt khoảng 509,8 tr.kWh (cao hơn 10,3 tr.kWh so với kế hoạch tháng 3). Hiện tại đã huy động toàn bộ các tổ máy nhiệt điện than khả dụng trên hệ thống. Không có tổ máy bất khả dụng do thiếu than. Tuy nhiên, từ 09/03/2024 nhà máy điện Duyên Hải 3 và Duyên Hải mở rộng suy giảm công suất trong các chu kỳ không phải cao điểm để tiết kiệm than nhằm duy trì lượng tồn kho tối thiểu.
Đối với nhà máy điện BOT Vân Phong 1 (vận hành thương mại từ ngày 24/01/2024) được huy động theo nhu cầu hệ thống và để đảm bảo bao tiêu quy định trong hợp đồng mua bán điện.
Đối với nguồn năng lượng tái tạo chuyển tiếp, A0 đã lập lịch, điều độ ưu tiên huy động một phần (tổ máy, tua-bin gió, line mặt trời/gió) hoặc toàn bộ nhà máy điện đang trong quá trình thí nghiệm trước khi được công nhận ngày vận hành thương mại để sớm hoàn thành các thủ tục đưa vào vận hành đáp ứng nhu cầu hệ thống.
Tính đến nay, 62 dự án với tổng công suất 3.399,41 MW đã trình Bộ Công Thương phê duyệt giá điện tạm và đã được duyệt giá điện 50%, trong đó 62 dự án đã ký PPA; 09 dự án (~397,4 MW) đang thực hiện các thử nghiệm; 34 dự án (~1.914,145 MW) đã hoàn thành các thử nghiệm (AGC, P/Q, tin cậy); 24 dự án đã đưa vào vận hành (1.307,62 MW).
Thy Lê