Giá thép xây dựng trong nước vừa qua liên tục tăng mạnh chủ yếu do giá nguyên liệu sản xuất thép tăng và ngành thép phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài. |
Tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016 về biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan vừa được trình Chính phủ xem xét, Bộ Tài chính nhận định, giá thép xây dựng trong nước vừa qua liên tục tăng mạnh chủ yếu do tăng giá nguyên liệu sản xuất thép và ngành thép phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài.
Tuy nhiên, việc giá thép tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ và giải ngân cũng như chi phí dự phòng của các dự án, đặc biệt các dự án đầu tư công; ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của nhiều ngành sản xuất.
Theo đó, để góp phần hạ giá mặt hàng này, thúc đẩy các doanh nghiệp giảm chi phí, đặc biệt trong bối cảnh giá nguyên liệu tăng cao, Bộ Tài chính trình Chính phủ phương án điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng phôi thép và mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) của một số loại sắt thép xây dựng.
Cụ thể, Bộ Tài chính trình Chính phủ điều chỉnh tăng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép (nhóm 72.06 và 72.07) từ 0% lên 5%. "Việc thực hiện theo phương án này sẽ góp phần ổn định nguồn cung phôi thép cho thị trường trong nước, bình ổn giá trên thị trường và hạn chế được việc xuất khẩu phôi thép để giữ cho sản xuất trong nước, đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành thép trong dài hạn", Bộ Tài chính nêu.
Về thuế suất thuế nhập khẩu MFN của một số mặt hàng thép xây dựng dạng thanh, que thuộc nhóm 72.13, 72.14, 72.15 quy định tại Nghị định 57 hiện đang áp dụng là là 15% hoặc 20%; thép góc, khuôn, hình thuộc nhóm 72.16 là 15%; một số loại thép tấm thuộc nhóm 72.10 là 20% và 25%.
Bộ Tài chính đánh giá, các mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN này đã thực hiện trong một thời gian dài nên cần phải xem xét điều chỉnh cho phù hợp với các yêu cầu mới, nhất là đối với các loại thép xây dựng hiện có mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN ở mức là 15%, 20% hoặc 25%, cao hơn đáng kể so với các mức thuế suất FTA theo các hiệp định mà Việt Nam là thành viên.
Ngoài ra, đến nay, ngành thép đã hoàn toàn tự chủ và đủ cung ứng cho nhu cầu trong nước đối với phôi thép, thép xây dựng và một số loại thép tấm, đồng thời đã xuất khẩu được ra nước ngoài.
Trên cơ sở đó, để thực hiện Nghị quyết số 58 và Nghị quyết số 63 của Chính phủ và góp phần giảm giá thép nguyên liệu đầu vào, Bộ Tài chính trình Chính phủ giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với một số mặt hàng thép xây dựng.
Cụ thể, điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế MFN đối với thép cốt bê tông thuộc nhóm 72.13, 72.14, 72.15 (mã HS 7213.91.20; 7213.99.20; 7214.20.31; 7214.20.41; 7214.20.51; 7214.20.61; 7215.50.91; 7215.90.10) từ 20% xuống 15%; đối với thép góc, khuôn, hình thuộc nhóm 72.16 (mã HS 7216.33.11; 7216.33.19; 7216.33.90) và thép có răng khía thuộc nhóm 72.13 (mã HS 7213.10.10 và 7213.10.90) từ 15% xuống 10%.
Điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với nhóm sắt thép không hợp kim cán phẳng thuộc 8 mã hàng của nhóm 72.10 (HS 7210.41.11; 7210.41.91;7210.49.12; 7210.49.91; 7210.61.11; 7210.61.91; 7210.69.11; 7210.69.91) từ mức 20% và 25% xuống 15%.
Theo Bộ Tài chính, việc điều chỉnh giảm mức thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng nêu trên tuy có một số ảnh hưởng làm giảm thu ngân sách nhà nước nhưng mức ảnh hưởng dự báo không lớn do nhu cầu nhập khẩu các loại sắt thép này hiện nay là không cao. Đây là những loại thép mà trong nước cũng đã sản xuất được và cơ bản đáp ứng được nhu cầu.
"Việc điều chỉnh này sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đầu tư, đổi mới công nghệ để giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm thép nhập khẩu, qua đó góp phần bình ổn thị trường trong nước, đồng thời, thúc đẩy ngành thép phát triển bền vững", dự thảo nêu.
Hoàng Hà