Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) ước tính xuất khẩu (XK) thủy sản tháng 7 đạt 170 nghìn tấn, trị giá 740 triệu USD, giảm 1% về lượng và giảm 3,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018. Tính chung 7 tháng đầu năm 2019, XK thủy sản giảm 1,9% về lượng và giảm 1,8% về trị giá so với cùng kỳ, ước đạt 1,083 triệu tấn, trị giá 4,6 tỷ USD.
Khó khăn bủa vây
Như vậy, những tháng còn lại, ngành thủy sản phải đạt kim ngạch XK gần 6 tỷ USD mới hoàn thành mục tiêu đề ra trong năm 2019 là thu về 10 tỷ USD. Tuy nhiên, điều này không dễ khả thi trong bối cảnh ngành đang đối mặt nhiều khó khăn từ hầu hết thị trường.
Cục Xuất Nhập khẩu dự báo XK thủy sản trong quý III/2019 sẽ tiếp tục gặp khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới khiến giá thủy sản ở mức thấp, các nước nhập khẩu ngày càng quan tâm đến chất lượng sản phẩm và đưa ra các rào cản kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, XK thủy sản đối mặt với nhiều khó khăn do tác động của các rào cản thương mại từ các đối tác lớn như Mỹ, Trung Quốc, EU và do giá thủy sản, đặc biệt là tôm giảm mạnh.
Ông Trần Văn Lĩnh, Chủ tịch HĐQT công ty Thủy sản và Thương mại Thuận Phước (Đà Nẵng), cho hay ước tính 8 tháng đầu năm 2019, sản lượng XK của doanh nghiệp (DN) này tăng 10 – 15% nhưng giá trị giảm 1% so với cùng kỳ. Trong đó, giá tôm giảm là nguyên nhân chính dẫn đến giá XK giảm.
"Các nhà nhập khẩu căn cứ vào giá nguyên liệu tôm từ nước XK lớn nhất là Ấn Độ để đàm phán giá tôm chế biến. Ấn Độ tăng sản lượng, giảm giá 10 – 12% khiến tôm Việt Nam khó mà cạnh tranh khi giá thành nuôi tôm vẫn cao hơn thế giới", ông Lĩnh cho biết.
Thực tế, việc tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) chưa đem lại nhiều cơ hội cho ngành thủy sản như kỳ vọng. Theo phản ánh của các DN, thuế XK sang các thị trường này có giảm nhưng hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, quy tắc xuất xứ chặt hơn, phức tạp hơn, trong khi sản phẩm của Việt Nam so với các nước đối tác FTA kém cạnh tranh hơn về giá thành.
Ông Lê Văn Quang, Chủ tịch HĐQT CTCP Tập đoàn thủy sản Minh Phú, cho biết việc ký kết EVFTA là thông tin vui đối với các DN thủy sản. Tuy nhiên, ngay lập tức đẩy mạnh XK thủy sản vào EU là không dễ, vì thị trường này rất khắt khe. Hiện tại, tỷ trọng XK của Minh Phú vào EU mới dừng ở con số 11% trong tổng sản lượng XK. Với mặt hàng tôm, khách hàng EU yêu cầu tỷ lệ mạ băng trên sản phẩm rất cao, khoảng 20 – 30%, sản phẩm của Việt Nam rất khó đáp ứng.
Hay như đối với thị trường Trung Quốc, Hiệp hội Chế biến và XK thủy sản Việt Nam (Vasep) cũng cho rằng trong trường hợp khả quan nhất, XK tăng vào quý cuối năm, có thể kim ngạch XK sang Trung Quốc giữ được mức tương đương như năm 2018 là 1,2 tỷ USD.
Hiện nay, có hơn 150 DN Việt Nam tham gia XK thủy sản sang thị trường Trung Quốc, trong đó có khoảng 45 DN XK cá tra, basa và gần 50 DN XK tôm và một số DN hải sản. "Một số lượng đáng kể DN XK sang thị trường Trung Quốc bị ảnh hưởng chắc chắn sẽ làm giảm doanh số thủy sản XK nói chung và sẽ tác động đến các thị trường khác trong khu vực vì chỉ cần nhu cầu giảm tại Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến các nền kinh tế Đông Nam Á", Vasep lo ngại.
Điều này cho thấy để đạt được mục tiêu XK 10 tỷ USD trong năm 2019, ngành thủy sản cần phải cố gắng rất lớn. Chưa kể, trong năm nay, ngành này phải xóa được "thẻ vàng" của Ủy ban châu Âu (EC). Theo kế hoạch, tháng 10 năm nay, Hội đồng châu Âu sẽ đến Việt Nam kiểm tra việc thực hiện các khuyến nghị phát triển thủy sản bền vững, nếu không đáp ứng được, nhiều khả năng "thẻ vàng" sẽ nâng lên "thẻ đỏ". Nếu điều này xảy ra, những kỳ vọng về cơ hội lớn từ EVFTA đối với ngành này sẽ tan biến.
XK thủy sản theo tháng giai đoạn 2018 – 2019 |
Đồng bộ từ nguyên liệu
Theo các chuyên gia trong ngành, nhiều năm qua, ngành thủy sản vẫn đang đối mặt với những khó khăn nội tại. Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Vasep, cho biết ngành thủy sản đang phải đối mặt với nhiều thách thức về nguồn nguyên liệu, sức cạnh tranh và rào cản thị trường. Việc duy trì nguyên liệu của các DN Việt Nam chưa thật sự tốt do chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, dịch bệnh chưa được kiểm soát tốt dẫn đến thiếu hụt nguyên liệu.
Về tổ chức sản xuất, ông Trần Đình Luân, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, thừa nhận đối với ngành cá tra, tổ chức sản xuất lớn đã rõ nhưng một số ngành khác như tôm sản xuất nhỏ lẻ còn khá nhiều. Đó là một trong những hạn chế cần khắc phục để nâng cao giá trị của ngành.
Ngoài ra, một số ngành mới như nuôi cá rô phi rất có tiềm năng phát triển nhưng việc tổ chức sản xuất phát triển thị trường mới chỉ là bước đầu. Vì vậy, để phát huy hết tiềm năng trong thời gian tới, ngành cần tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp đồng bộ trong kế hoạch tái cơ cấu đã được phê duyệt. Ngoài ra, trong từng thời điểm cụ thể, cần linh hoạt trong công tác chỉ đạo điều hành để đạt hiệu quả sản xuất ở mức cao nhất.
Từ thực tiễn của DN, ông Nguyễn Duy An, Phó Tổng Giám đốc công ty KTC (Kiên Giang), cho hay XK sản phẩm thủy sản sơ chế và nguyên liệu thu về 5-6 triệu USD nhưng nếu sản xuất hàng đóng hộp, chế biến thành phẩm, giá trị thu về tăng gấp đôi, lên tới 10 – 11 triệu USD/năm.
Theo ông An, 1kg cá ngừ tươi có giá bán khoảng 25.000 đồng nhưng nếu được chế biến sâu, đóng hộp, giá XK 100g là hơn 20.000 đồng. Hay như con tôm tươi, DN có thể chế biến thành các mặt hàng tinh chế như tẩm bột, sushi… được các thị trường khó tính như châu Âu, Mỹ rất ưa chuộng.
Tuy nhiên, rất ít DN chế biến thủy sản Việt Nam sản xuất được hàng đóng hộp, gia tăng hàm lượng chế biến, mà chủ yếu XK sản phẩm sơ chế, nguyên liệu.
Cùng với đó, ngành thủy sản Việt Nam còn bỏ lỡ nhiều lợi thế phát triển ngành công nghiệp chế biến phụ phẩm. Ông Phan Thanh Lộc, Phó Chủ tịch HĐQT CTCP Việt Nam Food, tính toán hàng năm Việt Nam có hơn 1.000.000 tấn phụ phẩm thủy sản, nếu áp dụng công nghệ để biến những phụ phẩm này thành sản phẩm tiêu dùng, giá trị thu về sẽ rất lớn. Đơn cử như 1kg phụ phẩm thủy sản có giá trị 1 USD, với 1.000.000 tấn phụ phẩm sẽ thu về tới 1 tỷ USD.
Nguyên nhân chính khiến ngành thủy sản Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội này là do khoảng cách về công nghệ, máy móc thiết bị phát triển ứng dụng cũng như chiến lược thương mại hóa chưa được định hướng đồng bộ. Điều đó cho thấy nếu đẩy mạnh công nghiệp chế biến, ngành thủy sản sẽ không phải loay hoay với mục tiêu thu về 10 tỷ USD, thậm chí còn có thể thu về thêm nhiều tỷ USD nữa.
Lê Thúy
Ông Nguyễn Xuân Cường - Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Mục tiêu đạt kim ngạch XK 10 tỷ USD là rất cao nhưng hoàn toàn có cơ sở thực hiện. Để hoàn thành cần sự đồng bộ của cả chuỗi giá trị, từ khâu khai thác và sản xuất nguyên liệu đến chế biến và tổ chức thị trường. Trong đó, sản xuất nguyên liệu phải đảm bảo quy trình sạch, tuân thủ các tiêu chuẩn về chất lượng đầu vào. Ông Phan Thanh Lộc - Phó Chủ tịch HĐQT CTCP Việt Nam Food Chỉ có khoảng dưới 10% phụ phẩm tôm được xử lý tạo sản phẩm giá trị gia tăng và phần lớn là xả bỏ hoặc xử lý thiếu định hướng. Trong khi đó, phụ phẩm tôm chứa nhiều dưỡng chất như đạm, khoáng, béo… có thể tạo ra các giá trị gia tăng như acid amin, peptide, chitosan… ứng dụng trong rất nhiều ngành công nghiệp. Nếu đầu tư công nghệ hợp lý, các sản phẩm đầu ra có giá trị tăng vọt so với đầu vào. Ông Trần Đình Luân - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản FTA sẽ đem tới nhiều cơ hội cho ngành thủy, song chúng ta đừng chỉ nhìn màu hồng. Để tận dụng được là cả một quá trình chuẩn bị, xây dựng chuỗi sản xuất cho các ngành hàng; liên kết giữa người sản xuất, người thu mua, người chế biến, người làm thị trường, nếu không có sự chuẩn bị tốt, tất cả cơ hội chỉ nằm trên giấy. |