Giám đốc một công ty vừa và nhỏ ở Bình Dương chuyên may gia công một số chi tiết cho các công ty sản xuất quần áo xuất khẩu (XK) cho biết, hơn 3 tháng nay công ty không nhận được đơn hàng nên đã tạm dừng hoạt động, chờ đợi năm 2023 sắp tới nếu tình hình kinh tế có khả quan hơn, có đơn hàng trở lại thì mới tiếp tục khôi phục hoạt động sản xuất.
Tạm ngừng hoạt động giữa muôn trùng khó khăn
Đây cũng là tình cảnh chung của không ít doanh nghiệp (DN) khi đơn hàng không có trong nhiều tháng liền nên rất khó trụ nổi. Số liệu mới nhất từ Sở KH&ĐT tỉnh Bình Dương cho thấy, số lượng DN đăng ký tạm ngừng kinh doanh trong 11 tháng năm 2022 là 1.353 DN, tăng 18,58% với cùng kỳ năm 2021. Ngoài ra, số DN hoàn tất thủ tục giải thể trong 11 tháng đầu năm nay là 530 DN, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm rồi. Số lượng DN bỏ địa chỉ kinh doanh là 361 DN, tăng 64,09%.
Tính đến giữa tháng 12/2022 nhiều DN ở tỉnh này, nhất là trong các ngành gỗ, dệt may, da giày… tiếp tục cắt giảm lao động, tạm hoãn hợp đồng lao động hoặc cho công nhân nghỉ Tết 2 tháng do hết việc.
Nhiệm vụ khó khăn nhất hiện nay là tiếp tục tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn khi mà nhiều DN rơi vào “đường cùng” buộc phải lựa chọn giải pháp tạm ngừng hoạt động. |
Còn tại tỉnh Đồng Nai, tính đến hết tháng 11/2022 đã có hơn 1,1 ngàn DN tạm ngừng kinh doanh, tăng hơn 67% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, có 464 DN giải thể, tăng hơn 56% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, có 561 chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động, tăng 54%.
Tại Tp.HCM, số liệu cập nhật từ Sở KH&ĐT Tp.HCM trong tháng 11/2022 cho thấy số DN đăng ký tạm ngừng kinh doanh là 1.279 DN. Còn trong các tháng 7, 8 và 10 của năm 2022, mỗi tháng số DN tạm ngừng đăng ký kinh doanh là trên 1.000 DN. Riêng 6 tháng đầu năm nay, số DN đăng ký tạm ngừng kinh doanh là 15.122 doanh nghiệp, tăng 45,15% so với cùng kỳ năm 2021.
Theo báo cáo mới đây của Cục Đăng ký kinh doanh (Bộ KH&ĐT), trong 11 tháng năm 2022 có 132.339 DN rút lui khỏi thị trường, tăng 24,3% so với cùng kỳ năm 2021 và gấp 1,3 lần mức bình quân cùng kỳ giai đoạn 2017-2021. Trong đó, số lượng DN tạm ngừng kinh doanh là 70.220 DN, tăng 34,8% so với cùng kỳ năm 2021.
Bên cạnh đó, số DN chờ làm thủ tục giải thể là 45.271 DN, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2021. Số DN giải thể là 16.848 DN, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm 2021.
Nguyên nhân được cho là vì tình hình kinh tế thế giới đã và đang có nhiều biến động phức tạp (giá năng lượng, hàng hóa cơ bản tăng mạnh, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, lạm phát tăng cao tại nhiều quốc gia, đối tác lớn của Việt Nam; xung đột tại Nga – Ukraine khiến xu hướng mua sắm của người tiêu dùng trên thế giới giảm mạnh...), tác động đến quá trình phục hồi của nền kinh tế thế giới sau hơn 2 năm bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19.
“Điều này đã khiến cộng đồng DN đối mặt với khó khăn do đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất, thiếu hụt nguồn tiền cho việc khôi phục sản xuất, duy trì hoạt động kinh doanh... Do vậy, nhiều DN phải lựa chọn giải pháp tạm ngừng hoạt động hoặc giải thể”, Cục Đăng ký kinh doanh nhận định.
Cần tiếp tục tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn
Theo Cục Đăng ký kinh doanh, đơn hàng cho năm 2023 với nhiều ngành XK chủ lực đều sụt giảm nghiêm trọng, đặc biệt với các ngành dệt may, da giày, nội thất, nhôm công nghiệp, sắt thép, xi măng... Nhiều DN đã phải cắt giảm nhân công, giảm quy mô sản xuất trong các tháng cuối năm 2022.
Ngoài ra, có thể thấy khó khăn về dòng tiền đang ảnh hưởng không nhỏ tới việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Trong bối cảnh khó khăn bủa vây từ nhiều phía, DN cần tiền đề duy trì, trợ lực, nhưng dòng vốn lại đang cạn kiệt.
Chưa kể, tình hình nợ thuế hiện nay cũng cho thấy khó khăn của DN. Theo Tổng cục Thuế, tổng số tiền nợ thuế do ngành thuế quản lý ước tính đến cuối tháng 11/2022 là 126.642 tỷ đồng, tăng 3% so với cuối năm 2021. Nguyên nhân một phần là vì một số DN kinh doanh thua lỗ do tình hình kinh tế trong và ngoài nước gặp nhiều khó khăn, thiếu nguyên liệu đầu vào…, nên đã không có khả năng nộp ngân sách nhà nước đúng hạn.
Áp lực cho việc thu ngân sách Nhà nước trong tháng cuối cùng của năm 2022 và đầu năm 2023 là điều thấy rõ. Nhất là khi sức ép lạm phát trên thế giới tăng cao, xung đột địa chính trị leo thang, khủng hoảng năng lượng ngày càng trầm trọng kéo theo khủng hoảng các thị trường hàng hóa khác…đang tác động tiêu cực đến doanh thu và lợi nhuận của nhiều DN trong nước.
Ngoài ra, dưới góc nhìn của một chuyên gia tài chính, Ts. Daniel Borer (Đại học RMIT) đã lưu ý về nguy cơ suy thoái năm 2023 khi lãi suất tiếp tục tăng. Theo đó, mặc dù đã vượt qua đại dịch Covid-19 tốt hơn nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam không được miễn dịch trước một loại virus khác đang len lỏi xâm nhập, đó là lạm phát.
Theo ông Borer, lạm phát ở Việt Nam được kiềm chế tốt trong phần lớn năm 2022 nhưng đã lên mức 4,3% trong tháng 10 và 4,37% trong tháng 11, cao hơn mục tiêu ban đầu mà Chính phủ đề ra cho cả năm (4%). Và triển vọng cho năm tới có thể sẽ càng khó khăn hơn.
Không chỉ vậy, thị trường XK hàng hóa lớn nhất của Việt Nam hiện là Mỹ, chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch XK. Thế nhưng khách hàng số 1 của Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với một cuộc suy thoái nghiêm trọng khác vào năm tới, khi mà hiện nay nền kinh tế đang phải gánh chịu những đợt tăng lãi suất đột ngột do Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) áp đặt.
Nhìn vào bức tranh toàn cảnh không mấy thuận lợi này, Ts. Borer cho rằng Việt Nam có thể sẽ phải đối diện với nguy cơ lạm phát đình trệ (stagflation), tức là suy thoái kinh tế đi kèm với lạm phát cao, vốn đã “hoành hành” ở các nước phương Tây trong thời gian qua.
Cho nên, như lưu ý của vị chuyên gia RMIT, nhiệm vụ khó khăn nhất hiện nay là tiếp tục tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn. Chẳng hạn, số hóa thương mại cần được đẩy mạnh hơn nữa để giúp cho hoạt động xuất nhập khẩu hiệu quả hơn về chi phí.
“Ngoài ra, với Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) hình thành thì các mối liên kết của các DN Việt với khu vực cần được tăng cường và giảm phụ thuộc vào các thị trường như Mỹ hay Châu Âu”, ông Borer lưu ý.
Thế Vinh