Sáng 8/4, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo công bố kết quả nghiên cứu “Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ngành sản xuất đồ uống có cồn tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị chính sách”.
Hội thảo công bố kết quả nghiên cứu “Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ngành sản xuất đồ uống có cồn tại Việt Nam. |
Theo TS. Đặng Thị Thu Hoài, Trưởng Ban Nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực (CIEM), Chính phủ Việt Nam kỳ vọng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với đồ uống có cồn sẽ đạt được các mục tiêu giảm lượng tiêu thụ đồ uống có cồn, từ đó hạn chế ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe của người tiêu dùng, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời đảm bảo công bằng, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, hạn chế nguy cơ tăng tiêu thụ hàng buôn lậu và hàng kém chất lượng.
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, sau gần 15 năm thực hiện, các mục tiêu này đều chưa đạt được một cách triệt để.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan khi đồ uống có cồn phi chính thức/chưa được ghi nhận chiếm đa số trên thị trường, phương pháp tính thuế TTĐB hiện hành – thuế tương đối (ad valorem) được xác định là một trong những nguyên nhân chính.
Cụ thể, nhóm nghiên cứu CIEM đánh giá phương pháp này không có tác động trực tiếp làm giảm tiêu thụ cồn nguyên chất, thậm chí trong dài hạn còn khuyến khích nhà sản xuất và người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm giá rẻ hơn với lượng cồn nguyên chất cao hơn – dẫn tới nguy cơ cao hơn về an toàn thực phẩm và sức khỏe cộng đồng. Mặt khác, đối với hoạt động thu ngân sách, hệ thống thuế hiện hành không đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước, mà còn làm tăng chi phí quản lý nhà nước.
Đáng chú ý, phương pháp này không còn phù hợp với thực tiễn quốc tế. Hiện nay trên thế giới, nhiều nước phát triển đã chuyển hoàn toàn sang đánh thuế tuyệt đối (như Úc, Canada, Nhật Bản, Mỹ và hầu hết các nước OECD) và các nước láng giềng và có điều kiện kinh tế tương tự Việt Nam cũng đã chuyển dần sang thuế tuyệt đối hoặc hỗn hợp (như Indonesia, Philippines, Thái Lan và Malaysia).
Trong bối cảnh đó, bà Hoài cho rằng việc nghiên cứu và tìm ra phương pháp tính thuế TTĐB hợp lý, khắc phục được những hạn chế đã nêu ở trên và giúp Chính phủ đạt được các mục tiêu chính sách là điều hết sức cần thiết.
Để phù hợp với tình hình của Việt Nam, nhóm nghiên cứu CIEM đã tiến hành kiểm chứng hiệu quả của phương pháp đánh thuế hỗn hợp (mixed tax).
Nghiên cứu đưa ra 5 kịch bản khác nhau. Theo đó, kịch bản 1: giữ nguyên phương pháp thuế tương đối và tăng thuế suất theo lộ trình; Kịch bản 2: áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp, kết hợp cả thuế suất tương đối trên giá bán buôn của sản phẩm và thuế suất tuyệt đối trên mỗi lít sản phẩm tiêu thụ; Kịch bản 3: tương tự Kịch bản 2 song thuế suất tuyệt đối tính trên mỗi lít cồn nguyên chất (LPA), thay vì mỗi lít sản phẩm tiêu thụ; Kịch bản 4: Giảm mạnh mức thuế suất tương đối từ năm thứ 2 và tăng mạnh mức thuế tuyệt đối trên mỗi lít tiêu thụ; Kịch bản 5: tương tự Kịch bản 4, tuy nhiên thuế tuyệt đối sẽ áp dụng trên mỗi lít cồn nguyên chất (LPA), thay vì là mỗi lít tiêu thụ.
Kết quả, trong trường hợp cố định mức giảm sản lượng ở kịch bản 2-5 như trong kịch bản 1 để so sánh sự thay đổi về tổng thu ngân sách nhà nước, ghiên cứu cho thấy so với kịch bản cơ sở (kịch bản 0), mức tăng thu ngân sách nhà nước từ ngành đồ uống có cồn đều vượt trội, đặc biệt ở các kịch bản 2-5.
Cụ thể, nếu tiếp tục áp dụng thuế tương đối theo kịch bản 1, thu ngân sách nhà nước sẽ tăng khoảng 38% so với kịch bản cơ sở, trong khi nếu chuyển sang phương pháp thuế hỗn hợp, mức tăng thu ngân sách nhà nước đều rất lớn, trong đó tăng cao nhất là ở các kịch bản 5 (tăng 75,38%) hoặc 4 (tăng 74,3%). Nếu theo kịch bản 2 hoặc 3, mức tăng cũng vào khoảng 63%.
“Rõ ràng là, phương pháp thuế hỗn hợp hoàn toàn giúp Chính phủ đạt được mục tiêu về mặt ngân sách nhà nước”, nhóm nghiên cứu CIEM chỉ ra.
Theo đó, đại diện nhóm nghiên cứu, TS. Đặng Thị Thu Hoài cho rằng khi thực hiện sửa đổi Luật Thuế TTĐB ở thời điểm phù hợp, xem xét việc áp dụng phương pháp thuế hỗn hợp dựa trên số lít cồn nguyên chất – LPA (kịch bản 3) thay cho thuế tương đối do các ưu điểm vượt trội trong việc giúp đạt các mục tiêu chính sách và phù hợp với bối cảnh và khả năng thích ứng của Việt Nam.
Đồng thời, Việt Nam cũng cần ổn định môi trường chính sách, đặc biệt là chính sách thuế, để giúp doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh sau nhiều năm chịu tác động nặng nề của đại dịch COVID-19. Đây cũng là giải pháp nhằm nuôi dưỡng nguồn thu, hướng tới việc tăng thu ngân sách trong dài hạn.
Thy Lê