Thực tế cho thấy, những ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao hơn 100%, trong trường hợp xấu nhất là toàn bộ nợ xấu không thể thu hồi được, thì ngân hàng vẫn còn dự phòng để xử lý và không làm ảnh hưởng đến lợi nhuận. Còn nếu trường hợp nợ xấu thu hồi được, ngân hàng có thể hoàn nhập dự phòng, từ đó được xem như “của để dành” cho tương lai. Vì thế, ngân hàng có chiến lược phòng thủ và sở hữu tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao sẽ có khả năng duy trì mục tiêu kép là tăng trưởng lợi nhuận và chất lượng tài sản tốt. Ngược lại, ngân hàng khó vượt qua rủi ro khi bộ đệm dự phòng thấp.
Dự phòng giảm mạnh
BIDV mới đây đã công bố báo cáo tài chính quý II/2023, với lợi nhuận trước thuế đạt 6.942 tỷ đồng tăng 7% so với cùng kỳ. Động lực tăng trưởng lợi nhuận của BIDV quý II/2023 đến từ cắt giảm chi phí dự phòng rủi ro (giảm 35%).
Các chuyên gia nhận định, con số nợ xấu sẽ phản ánh thực tế hơn vào nửa cuối năm 2024. |
Lũy kế 6 tháng, lợi nhuận thuần trước trích lập dự phòng rủi ro của BIDV giảm 5% so với cùng kỳ. Mặc dù vậy, do trích lập dự phòng rủi ro 6 tháng giảm tới 30% (giảm 4.118 tỷ đồng so với cùng kỳ) đã giúp lợi nhuận trước thuế 6 tháng của BIDV tăng gần 26%, đạt 13.862 tỷ đồng (tăng 2.859 tỷ đồng).
BIDV giải thích, 6 tháng đầu năm nay ngân hàng chuyển dịch cơ cấu hoạt động theo hướng bền vững, kiểm soát chất lượng tín dụng theo mục tiêu, giảm chi phí dự phòng rủi ro tín dụng so với cùng kỳ là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận tăng. Ngoài ra, hoạt động dịch vụ và hoạt động kinh doanh ngoại hối cũng đạt mức tăng trưởng tốt.
TPBank cũng cắt giảm hơn một nửa chi phí dự phòng rủi ro trong hai quý vừa qua, từ mức hơn 1.400 tỷ đồng 6 tháng đầu năm 2022 xuống còn 683 tỷ đồng. Tuy nhiên, lợi nhuận trước thuế của nhà băng này vẫn giảm gần 11% do sự suy yếu của thu nhập lãi thuần. Nếu loại trừ ảnh hưởng của chi phí dự phòng rủi ro, lợi nhuận thuần của TPBank thậm chí còn giảm tới gần 22% so với cùng kỳ năm trước.
Nửa đầu năm nay, MB đạt lợi nhuận hợp nhất trước thuế 12.735 tỷ, tăng 7%. Với kết quả này, MB đứng thứ 4 trong hệ thống về lợi nhuận, sau 3 ông lớn là Vietcombank, BIDV và Agribank.
Ngoài mảng thu nhập lãi thuần tăng 13,5%, đạt 19.708 tỷ đồng, bù đắp cho sự suy giảm của các lĩnh vực khác, lợi nhuận nửa đầu năm 2023 của MB được hỗ trợ nhờ giảm dự phòng rủi ro tới 12,8% (giảm 448 tỷ đồng).
Không chỉ các ngân hàng lớn, một số ngân hàng nhỏ cũng giảm mạnh chi phí dự phòng kiềm chế đà lao dốc của lợi nhuận. Chẳng hạn, trong 6 tháng đầu năm, Saigonbank đã giảm hơn một nửa chi phí này, từ 181 tỷ đồng xuống còn hơn 85 tỷ đồng, do đó lợi nhuận trước thuế Saigonbank đạt hơn 183 tỷ đồng, tăng 4,3%.
Động lực tăng trưởng lợi nhuận của PGBank trong 6 tháng đầu năm cũng chủ yếu đến từ việc cắt giảm chi phí dự phòng rủi ro, khi chi phí này giảm 39% so với cùng kỳ năm 2022. Cụ thể, trong gần 32 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế tăng thêm thì có tới 26 tỷ đồng đến từ giảm chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, lợi nhuận thuần chỉ tăng hơn 6 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái.
BacABank cũng đã giảm hơn 55% chi phí dự phòng rủi ro trong 6 tháng đầu năm. Đây là nguyên nhân chủ chốt giúp lợi nhuận trước thuế của nhà băng này tăng gần 10% so với cùng kỳ năm 2022.
Nợ xấu trồi lên
Theo khảo sát của VnBusiness, hầu hết các ngân hàng giảm mạnh dự phòng rủi ro đều ghi nhận nợ xấu tăng mạnh trong kỳ. Chẳng hạn, tại ngày 30/6/2023, nợ xấu của BIDV ở mức 25.970 tỷ đồng, tăng 47% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cho vay theo đó tăng từ 1,16% lên 1,59%. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của BIDV đạt 153%.
Tương tự, tại thời điểm 30/6/2023, nợ xấu nhóm 3 và nhóm 4 của MB tăng lần lượt 1,8 và 2,2 lần, riêng nợ xấu nhóm 5 giảm 422 tỷ đồng. Tổng nợ xấu 7.480 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 1,44%.
PGBank cũng ghi nhận tổng nợ xấu tại thời điểm này tăng 13% so với đầu năm lên hơn 839 tỷ đồng. Trong đó, nợ có khả năng mất vốn chiếm đến 66%, dù có giảm, nợ dưới tiêu chuẩn là nhóm tăng mạnh. Tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay tăng từ mức 2,56% đầu năm lên 2,77%.
Xu hướng tương tự cũng xuất hiện tại TPBank, đến cuối tháng 6/2023 đã tăng vọt 188% lên 3.912,7 tỷ đồng, gấp 2,8 lần đầu kỳ. Trong đó, nợ dưới tiêu chuẩn tăng vọt gấp 5,6 lần lên 2,146,8 tỷ đồng; Nợ nghi ngờ cũng tăng mạnh 142% lên 1.129 tỷ đồng (gấp 2,4 lần đầu kỳ); Nợ có khả năng mất vốn tăng 26% lên 636 tỷ đồng. Do đó, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng mạnh từ mức 0,84% vào đầu năm lên mức 2,21%.
Nợ xấu gia tăng xuất phát từ tình trạng đóng băng của thị trường bất động sản, sức khỏe tài chính của doanh nghiệp và người vay tiền giảm sút. Theo đó, ngân hàng có rủi ro nợ xấu cao là các đơn vị có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp, tỷ trọng cho vay bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp cao.
Trong bối cảnh nợ xấu tăng nhanh, việc giảm trích lập dự phòng khiến tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của các ngân hàng trên giảm mạnh trong nửa đầu năm đặt ra câu hỏi về khả năng chống chịu trước các "cú sốc" trong thời gian tới khi nợ xấu có xu hướng tăng mạnh.
Với một số thành viên có tỷ lệ bao phủ thấp như đề cập ở trên, tình hình sẽ có nhiều khác biệt, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô tiềm ẩn nhiều diễn biến khó lường như hiện nay. Việc tăng nguồn lực dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu theo đó là rất cần thiết.
Trước áp lực nợ xấu hệ thống tăng cao cũng như nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp đang gặp khó khăn, cuối tháng 4/2023, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 02/2023/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ.
Theo thông tư này, các ngân hàng sẽ có quyền lựa chọn cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong phạm vi tối đa là 12 tháng và giữ nguyên nhóm nợ trong khi các khoản dự phòng có thể được trích dần trong 2 năm.
Theo nhận định của giới phân tích, áp lực lên cả bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh của các ngân hàng sẽ giảm bớt phần nào, do rủi ro tỷ lệ nợ xấu gia tăng sẽ được chuyển sang đến nửa cuối năm 2024, áp lực lợi nhuận cũng giảm bớt ít nhất trong năm 2023 cho đến nửa cuối năm 2024, khi con số nợ xấu sẽ phản ánh thực tế hơn tình trạng của người đi vay.
Huyền Anh