Theo dữ liệu của Hiệp hội cấp thoát nước Việt Nam (VWSA), tổng công suất thiết kế cấp nước đạt khoảng 10,6-10,9 triệu m3/ngày đêm, tỷ lệ người dân đô thị được cấp nước qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 89-90%, tỷ lệ thất thoát nước sạch đạt khoảng 18-19%. Định hướng đến năm 2025, Việt Nam hướng đến mục tiêu tỷ lệ tiếp cận nước sạch được cung cấp tập trung ở khu đô thị là 100% với tiêu chuẩn tiêu thụ 120 lít/người/ngày. Đây là những cơ hội cũng như dư địa cho việc tăng trưởng của các doanh nghiệp ngành cấp nước.
Cổ phiếu ngược chiều triển vọng
Thực tế, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế chậm lại, việc chọn lựa những cổ phiếu duy trì mức tăng trưởng ổn định, hay còn gọi là cổ phiếu phòng thủ, là lựa chọn tốt cho danh mục đầu tư. Cổ phiếu phòng thủ được nhắc đến nhiều là ngành cấp nước nhờ doanh thu ổn định, tỷ suất lợi nhuận gộp biên cao và cổ tức tiền mặt đều đặn.
Thậm chí, các nhà đầu tư nước ngoài trong nhiều năm qua cũng đã đổ nguồn lực đầu tư vào ngành nước Việt Nam do nhận thấy tiềm năng lớn từ mảng kinh doanh có tính độc quyền cao này.
Dù được đánh giá là có tiềm năng lớn nhưng cổ phiếu ngành nước lại đang đứng ngoài "bữa tiệc" của thị trường chứng khoán vì nhiều lý do nội tại. |
Có thể kể đến như CTCP Đầu tư Việt Nam – Oman (VOI) – Liên doanh giữa Quỹ Dự trữ Quốc gia (SGRF) của Oman và Tổng công ty Quản lý vốn nhà nước (SCIC), đầu tư 19 triệu USD xây dựng Nhà máy nước Sông Hậu đi vào hoạt động vào cuối năm 2017; khởi động xây dựng Nhà máy nước mặt sông Đuống với tổng nguồn vốn đầu tư 225 triệu USD.
Một tên tuổi khác phải kể đến là Công ty Manila Water Asia Pacific (Philippines) thông qua việc mua cổ phần của CTCP Hạ tầng nước Sài Gòn (mã: SII) để đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào ngành nước sạch Việt Nam.
Thế nhưng, đi ngược với tiềm năng và sự kỳ vọng, trên thị trường chứng khoán trong suốt hơn 1 năm qua, nhóm cổ phiếu ngành nước lại chưa thu hút được nhiều chú ý của dòng tiền.
Nếu loại trừ một số mã cổ phiếu được đánh giá là có cấu trúc tài chính an toàn, vốn hóa lớn và sinh lời tốt như CTCP Nước Thủ Dầu Một (mã: TDM), CTCP Nước - Môi trường Bình Dương (Biwase, mã: BWE) và CTCP Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu (mã: BWS) thì đa số cổ phiếu ngành này có diễn biến giá lình xình, bất chấp sự sôi động của thị trường chung.
Có thể kể đến như cổ phiếu DNN của CTCP Cấp nước Đà Nẵng suốt nhiều năm qua luôn có dư mua giá trần hàng trăm nghìn cổ phiếu nhưng không hề có khớp lệnh. Cổ phiếu THN của CTCP Cấp nước Thanh Hoá, TVW của CTCP Cấp nước Trà Vinh, STW của CTCP Cấp nước Sóc Trăng cũng ở tình trạng tương tự.
Các cổ phiếu cấp nước khác trên UPCoM tuy có giao dịch nhưng giá không biến động, thanh khoản kém.
Điển hình là cổ phiếu DNW của CTCP Cấp nước Đồng Nai dù kết quả kinh doanh ghi nhận tăng trưởng cả về doanh thu và lợi nhuận nhưng giá cổ phiếu này chỉ dao động quanh ngưỡng 21.000 – 24.000 đồng/cp từ đầu năm 2021 đến nay, với thanh khoản trung bình mỗi phiên vài chục nghìn đơn vị.
Vì đâu nên nỗi?
Không thể phủ nhận tiềm năng của ngành nước nước nói chung và các doanh nghiệp niêm yết nói riêng, nhưng việc đa số cổ phiếu ngành này đều đang giao dịch trên UPCoM đã là một điểm trừ đối với các nhà đầu tư về tính thanh khoản.
Ngoài ra, một điểm hạn chế của lĩnh vực hạ tầng nước Việt Nam là với quy mô vốn đầu tư rất lớn, cộng với việc chỉ có một người mua là công ty cấp nước trực thuộc UBND tỉnh, lĩnh vực xử lý nước vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của lãnh đạo tỉnh mà thiếu đi một khung pháp lý và một lộ trình để đi đến tự do hóa. Do đó, đầu tư ngành nước là "cuộc chơi" của những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh.
Cách đây không lâu, ông Nguyễn Văn Thiền, Chủ tịch Biwase đã khẳng định điều này khi nói rằng: “Đầu tư ngành nước phải có nguồn vốn lớn, dự trữ tài chính mạnh bởi xây dựng nhà máy nước 7, 8 năm đầu lỗ là chuyện bình thường. Trong thời gian kinh doanh lỗ, vẫn phải trả nợ, ngân hàng cho vay chỉ ưu đãi 1 đến 2 năm đầu. Nếu không có nguồn vốn tiếp tục bỏ vào nữa thì ngân hàng thanh lý hợp đồng ngay. Khi lập đề án, chúng tôi phải tính tới chuyện lâu dài, 10 năm đầu là không có lãi và phải tính 20 năm trở lên”.
Bên cạnh đó, cơ cấu sở hữu 51% trở lên của các công ty phân phối nước khiến hoạt động quản trị trở nên trì trệ, kém minh bạch và thiếu công bằng với các cổ đông thiểu số cũng khiến các nhà đầu tư trở nên e dè đối với cổ phiếu của các doanh nghiệp này.
Theo số liệu của VWSA, tỷ lệ thất thoát nước của 94 thành viên hiệp hội trung bình lên đến 18%, thậm chí lên đến 22% tại TP.HCM, cao gấp đôi mức trung bình (10 - 11%) tại các nước phát triển. Bên cạnh đó, chỉ tiêu hiệu quả hoạt động/1000 đầu nổi trung bình cũng ở mức khá thấp, lợi nhuận không tăng trưởng nhưng chi phí tăng đều, trích khen thưởng phúc lợi ở mức cao, cổ tức tiền mặt đều đặn nhưng chưa tương xứng, tất cả đều là hệ quả của cơ cấu cổ đông ít đối trọng.
Đặc biệt, nhiều công ty ngành cấp nước cổ phần hóa, IPO và niêm yết nhưng chỉ làm "lấy lệ" theo chủ trương Chính phủ, chưa thực sự minh bạch hóa thông tin. Các doanh nghiệp hay đặt kế hoạch đi lùi, không công bố thông tin đầy đủ, thậm chí còn có những giao dịch tài chính bất thường, phát hành ESOP, phát hành riêng lẻ cho những đơn vị "lạ", phân bổ vốn đáng ngờ.
Minh Khuê