Chiều 26/12 tại Hà Nội diễn ra hội thảo Công bố báo cáo tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EFTA (VEFTA) đến Việt Nam.
![]() |
|
PGS.TS Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương, Trưởng Tiểu dự án phát biểu khai mạc. |
EFTA - Hiệp hội Mậu dịch Tự do châu Âu, bao gồm Thuỵ Sĩ, Na Uy, Iceland và Liechtenstein, tuy có quy mô nhỏ nhưng sở hữu tổng GDP khoảng 1,3 nghìn tỷ EUR, mức sống cao và nhu cầu lớn đối với sản phẩm chất lượng.
Mục tiêu của VEFTA là tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và tăng cường hợp tác kinh tế, giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, tiếp cận các nước thu nhập cao, tiêu chuẩn cao; đa dạng hóa thị trường.
Từ năm 2012, Việt Nam và EFTA chính thức khởi động đàm phán. Đến nay, Hiệp định đã trải qua 18 vòng đàm phán, trong đó vòng gần nhất diễn ra hồi tháng 11/2025 tại TP Đà Nẵng, ghi nhận tiến triển kỹ thuật. Dự kiến quý I/2026 hai bên sẽ tiếp tục các vòng đàm phán tiếp theo nhằm hoàn thiện hiệp định.
Theo nhóm nghiên cứu, đánh giá tác động của VEFTA được thực hiện trên cơ sở kết hợp phân tích định tính và định lượng, sử dụng mô hình cân bằng tổng thể khả toán động GTAP cùng các chỉ số thương mại (RCA, ES), với hai kịch bản chính: cắt giảm thuế theo lộ trình tương tự EVFTA và xóa bỏ toàn bộ thuế quan ngay khi hiệp định có hiệu lực.
Kết quả cho thấy VEFTA mang lại tác động tích cực đến tăng trưởng GDP, xuất khẩu, việc làm, thu nhập và phúc lợi xã hội của Việt Nam trong trung và dài hạn, đồng thời thúc đẩy dòng vốn đầu tư, đặc biệt trong các ngành dịch vụ và công nghiệp chế biến.
Ở cấp độ vĩ mô, VEFTA góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu sang EFTA, cải thiện cơ cấu thương mại theo hướng nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng, cũng như cải thiện môi trường đầu tư thông qua các cam kết về minh bạch, bảo hộ đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Ở cấp độ ngành, các ngành dệt may, da giày, nông - thủy sản, chế biến thực phẩm và một số dịch vụ được hưởng lợi rõ nét. Một số ngành như phương tiện vận tải, thép, hóa chất, tài chính - ngân hàng và truyền thông có thể chịu áp lực cạnh tranh gia tăng do nhập khẩu tăng.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu lưu ý VEFTA không chỉ là hiệp định cắt giảm thuế quan mà là một khuôn khổ hội nhập tiêu chuẩn cao, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về lao động, môi trường, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và phát triển bền vững. Do đó, lợi ích từ hiệp định phụ thuộc lớn vào năng lực thực thi và mức độ điều chỉnh chính sách của các bên liên quan.
Đặc biệt, đối với doanh nghiệp, VEFTA đòi hỏi sự chuyển đổi từ cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng tiêu chuẩn. Nhóm nghiên cứu khuyến nghị doanh nghiệp cần chủ động nâng cấp công nghệ, quản trị, đầu tư vào sản xuất sạch, truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu gắn với các tiêu chí ESG. Các ngành chịu áp lực cạnh tranh cần tái cấu trúc và nâng cao hiệu quả để thích ứng với môi trường cạnh tranh mới.
Với các hiệp hội ngành hàng và tổ chức trung gian, VEFTA đặt ra yêu cầu tăng cường vai trò hỗ trợ kỹ thuật thực chất cho doanh nghiệp, đặc biệt là SMEs, thông qua cung cấp thông tin, đào tạo về quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn SPS/TBT và hỗ trợ xử lý tranh chấp thương mại.
“VEFTA là cơ hội lớn để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường cao cấp, nhưng cũng là phép thử đối với năng lực cải cách thể chế và nâng cấp chuỗi giá trị.
Hiệu quả của VEFTA phụ thuộc vào sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ sở đào tạo - nghiên cứu, nhằm biến cam kết hội nhập thành tăng trưởng bền vững trong dài hạn”, bà Vũ Thị Phương Mai, đại diện nhóm chuyên gia nghiên cứu chia sẻ.
Phát biểu tại hội nghị công bố báo cáo, PGS.TS Đào Ngọc Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương, Trưởng Tiểu dự án khẳng định các cơ hội khi hiệp định được ký kết vào đưa vào thực thi, đồng thời nhấn mạnh mong muốn doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được những lợi thế từ kết quả đàm phán, chuyển hóa thành lợi ích cho doanh nghiệp.
![]() |
|
Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương. |
Ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng, Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương cho biết, VEFTA có thể là FTA dài nhất Việt Nam từng tham gia đàm phán.
Ông Khanh đánh giá báo cáo của nhóm nghiên cứu là tài liệu tham khảo quan trọng, không chỉ là dành cho cơ quan quản lý nhà nước mà còn cho các doanh nghiệp đã, đang và chuẩn bị tiếp cận thị trường EFTA, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường.
“Thị trường EFTA mặc dù không lớn nhưng thu nhập rất cao, tiềm năng, dư địa còn rất nhiều”, ông Khanh nhấn mạnh.
Đưa lời khuyên cho doanh nghiệp, ông Khanh lưu ý doanh nghiệp nên có tư duy tiếp cận FTA ở cả góc độ thị trường nhập khẩu, thay vì chỉ gói gọn là ở tư duy đa dạng xuất khẩu.
“Đa dạng thị trường nhập khẩu, đa dạng nguồn nhập khẩu, đa dạng đối tác cung ứng nhập khẩu sẽ góp phần tăng tính bền vững trong quá trình hội nhập… Chúng ta đang nỗ lực để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế sâu rộng. Chính phủ đã đặt ra những mục tiêu rất lớn, việc chúng ta có được FTA này sẽ phần nào đóng góp vào mục tiêu đó”, đại diện Vụ Chính sách thương mại đa biên đánh giá.
Đỗ Kiều

