Ở góc nhìn của một nhà đầu tư Nhật Bản, ông Nakamura Minoru, Giám đốc Công ty TNHH Morinaga Milk Việt Nam (hoạt động trong ngành nguyên liệu sữa), cho biết trước khi rót vốn vào Việt Nam từ năm 2020, công ty đã có nhiều nghiên cứu kỹ lưỡng về môi trường đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam.
Những dự báo tích cực
Theo ông Minoru, công ty lựa chọn đầu tư vào Việt Nam vì 3 lý do chính yếu. Thứ nhất là những hỗ trợ từ phía Chính phủ Việt Nam với nhiều chính sách khuyến khích, trợ giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai là xu hướng phát triển của thị trường nói chung và có ngành công nghiệp chế biến thực phẩm liên tục tăng trưởng trong những năm qua. Thứ ba là dân số Việt Nam liên tục tăng, mức sống, thu nhập của người dân cũng tăng cao.
“Chúng tôi nhận thấy cơ hội trong thị hiếu, xu hướng của thị trường đang xoay quanh, chú trọng vào những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng, tốt cho sức khoẻ”, ông Minoru nói.
Nhiều DN nhỏ và vừa của Nhật Bản thường xuyên đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội giao thương và đầu tư. |
Vị giám đốc này cũng nhấn mạnh dù trải qua 2 năm chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 dẫn đến nhiều trở ngại trong việc xúc tiến các kế hoạch kinh doanh, tuy nhiên công ty vẫn rất lạc quan và có nhiều dự báo tích cực về việc kinh doanh ở thị trường Việt Nam trong thời gian tới.
Báo cáo thực trạng doanh nghiệp (DN) Nhật Bản đầu tư tại nước ngoài năm tài chính 2022 được Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) tại Tp.HCM công bố mới đây cho thấy, về phương hướng triển khai kinh doanh trong 1-2 năm tới, tỷ lệ DN trả lời có kế hoạch “mở rộng” tại Việt Nam là 60.0% (tăng 4.7 điểm so với năm trước). Tỷ lệ này, tính theo quốc gia/khu vực thì Việt Nam chỉ sau Ấn Độ, Bangladesh và cao nhất trong khối ASEAN, cho thấy động lực cao trong cả khối sản xuất và bán hàng.
Về triển vọng lợi nhuận kinh doanh năm 2023, tỷ lệ DN dự báo “cải thiện” hơn so với năm 2022 là 53.6%, tỷ lệ DN dự báo “xấu hơn” là 6.9%. So với toàn khu vực châu Á và châu Đại Dương thì số DN dự báo lạc quan tại Việt Nam nhiều hơn.
Đáng chú ý, trong 11 tháng 2022, Nhật Bản là quốc gia đứng thứ hai về số vốn đầu tư tại Việt Nam, chỉ sau Singapore với hơn 4,6 tỷ USD, chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư, tăng 24,4% so với cùng kỳ.
Ở góc độ của một nhà đầu tư khu công nghiệp (KCN) đang thu hút nhiều DN vừa và nhỏ của Nhật Bản đến đặt nhà máy sản xuất, trao đổi với VnBusiness, ông Bùi Lê Anh Hiếu, Giám đốc phát triển DN thuộc CTCP Long Hậu - chủ đầu tư KCN Long Hậu (huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An - nơi mà các nhà đầu tư Nhật đang chiếm 30% tổng số các nhà đầu tư), cho biết thông qua sự trợ giúp của Jetro, nhiều nhà đầu tư Nhật đã chủ động tìm đến KCN để trao đổi và ra quyết định đầu tư.
Sức hút từ tăng tỷ lệ cung ứng nội địa
Và theo ông Hiếu, định hướng của KCN Long Hậu khi thu hút dòng vốn Nhật là tập trung vào những lĩnh vực có hàm lượng kỹ thuật cao, những ngành có sử dụng công nghệ cao và tự động hoá.
“Lợi thế về KCN của chúng tôi hiện nay là dịch vụ, đối với các DN Nhật thì tiêu chuẩn về dịch vụ đòi hỏi cao hơn so với những DN đến từ các quốc gia khác. Cho nên, chúng tôi phải tổ chức những buổi họp định kỳ hàng tháng với các nhà đầu tư Nhật để lắng nghe các đề xuất của họ, từ đó chúng tôi có cơ hội để cải thiện từng bước dịch vụ của mình để đáp ứng tốt nhu cầu”, ông Hiếu chia sẻ.
Trong kết quả khảo sát thực trạng các DN Nhật của Jetro, với năm 2023 sắp tới, các DN trong ngành chế tạo và phi chế tạo đều dự báo cải thiện trên 50%. Lý do “cải thiện” ở cả ngành chế tạo và phi chế tạo đều là do phục hồi sau đại dịch, đứng thứ nhất và thứ hai.
Các DN Nhật cũng không quên đề cập đến yếu tố “suy giảm” do chi phí mua nguyên vật liệu, logistics, phí nhân công…tăng, ngoài ra còn do ảnh hưởng của biến động tỷ giá là những nguyên nhân hàng đầu.
Tuy vậy, số DN Nhật trả lời “mở rộng” ngành chế tạo là 54.4% (tăng 2.7 điểm so với năm trước); ngành phi chế tạo là 65.9% (tăng 7.2 điểm). Đặc biệt với ngành phi chế tạo, các DN vừa và nhỏ của Nhật Bản có mong muốn mở rộng tăng mạnh.
Để tiếp tục thu hút các DN Nhật mở rộng đầu tư trong thời gian tới, giới chuyên gia cho rằng cần tập trung đầu tư các cơ sở hạ tầng phù hợp tại các địa phương lân cận với các dự án đầu tư lớn của Nhật Bản để đón làn sóng đầu tư của họ vào các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Song song đó, cũng cần tạo điều kiện cho việc phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam để tăng tỷ lệ cung ứng nội địa cho giới đầu tư Nhật. Qua đó, với nguồn cung tại chỗ sẽ giúp các nhà đầu tư Nhật giảm được chi phí nhập nguyên vật liệu và giảm chi phí logistics, cũng như giảm được ảnh hưởng của biến động tỷ giá.
Hơn thế nữa, cùng với thúc đẩy dòng vốn Nhật tiếp tục chảy mạnh vào Việt Nam thì rất cần thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường kết nối đầu tư, giao thương, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo nhằm hỗ trợ các DN Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất, tạo cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của DN Nhật Bản trong thời gian tới.
Trong khi đó, tại khảo sát tương tự ở Trung Quốc, số DN Nhật trả lời sẽ “mở rộng” kinh doanh chỉ chiếm 33.4%, mức thấp nhất (từ khi thực hiện khảo sát với cả khối phi chế tạo năm 2007 tới nay).
Cho nên, nhìn từ Trung Quốc, một khi Việt Nam đang nhận được sự tín nhiệm, tin cậy từ giới đầu tư Nhật để mở rộng đầu tư kinh doanh thì cần xứng đáng với niềm tin đó, để giới đầu tư xem địa bàn mà họ trú chân mãi là nơi “đất lành chim đậu”.
Thế Vinh