Tại Hội thảo định hướng và giải pháp xây dựng chuỗi cung ứng an toàn, bền vững cho doanh nghiệp trong bối cảnh địa chính trị mới do Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương tổ chức chiều 23/12, PGS.TS Bùi Quang Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới đã có những phân tích sâu sắc về tác động của địa chính trị mới đến chuỗi cung ứng toàn cầu và khuyến nghị cho Việt Nam.
![]() |
|
PGS.TS Bùi Quang Tuấn, Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. |
Tổng kết những vấn đề địa chính trị mới đến năm 2025, chuyên gia nhận định xung đột Nga - Ukraine; các điểm nóng Trung Đông; biển Đông và eo biển Đài Loan, bán đảo Triều Tiên, xung đột Ấn Độ - Pakistan, Thái Lan và Campuchia... là những khu vực tiềm ẩn nguy cơ va chạm quân sự cao, ảnh hưởng đến các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ông cũng nhắc đến cạnh tranh Mỹ - Trung không chỉ là thương mại mà là vấn đề về công nghệ lõi và kiểm soát xuất khẩu, kiểm soát đầu tư và kiểm soát dữ liệu. Mỹ dùng thuế nhập khẩu làm công cụ đe dọa thương mại toàn cầu.
Bên cạnh đó là sự trỗi dậy của các khối mới như BRICS mở rộng, các liên minh số; xu hướng mới của dòng đầu tư và chuỗi cung ứng như friend-shoring, near-shoring, Trung Quốc + 1; dự trữ chiến lược nguyên liệu (lithium, đất hiếm, lương thực) và cấm xuất khẩu; toàn cầu hóa trùng xuống và chuyển sang trạng thái phân mảnh và phân bố không đồng đều…
Trong bối cảnh này, tại Việt Nam, ông Tuấn nêu thực tiễn: Chỉ khoảng 2,5% doanh nghiệp có khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; tỷ lệ doanh nghiệp thực sự làm chủ công nghệ lõi chỉ chiếm chưa đến 0,3%; chỉ 17% doanh nghiệp SME đang áp dụng công nghệ 4.0. Ngoài ra, tỷ lệ giá trị gia tăng trong xuất khẩu của Việt Nam rất thấp, chỉ khoảng 18 - 20% trong các ngành công nghiệp trọng yếu như điện tử, dệt may.
Chuyên gia cũng dẫn khảo sát của VCCI cho thấy doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có định hướng rõ ràng khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, với 64,7% doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị; chỉ có khoảng 15,3% doanh nghiệp có chiến lược tổng thể dài hạn.
Sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam cũng cho thấy còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu.
“Việt Nam phải nhập 85,4% tổng nhu cầu xơ sợi trong nước. Nhiều ngành sản xuất chính như dệt may phụ thuộc đến 50% vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, da giày là 45%, sản xuất nhựa lên tới 80%”, chuyên gia dẫn chứng.
Bên cạnh đó, còn nhiều hạn chế trong việc xây dựng chuỗi giá trị xanh, giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng, áp dụng kinh tế tuần hoàn; thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR)...
Từ đó, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới khuyến nghị cần xây dựng chuỗi giá trị bền vững. Theo đó, toàn bộ các khâu từ nghiên cứu - thiết kế - sản xuất - logistics - marketing - phân phối - dịch vụ sau bán hàng phải được tổ chức sao cho về kinh tế tạo giá trị gia tăng cao, nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh. Về xã hội, tạo việc làm chất lượng, đảm bảo công bằng, bảo vệ quyền lợi người lao động và người tiêu dùng. Về môi trường, giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất.
Chuyên gia cũng nhấn mạnh giải pháp tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với nhau, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.
Theo ông, tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm công nghiệp tại Việt Nam còn rất thấp so với mục tiêu đề ra và thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Doanh nghiệp trong nước chủ yếu vẫn chỉ làm các khâu có giá trị gia tăng thấp như gia công, lắp ráp, ít tham gia vào các khâu có giá trị cao hơn như R&D thiết kế, marketing,... Doanh nghiệp FDI có xu hướng xây dựng chuỗi cung ứng riêng biệt, khép kín, ít tạo ra tác động lan tỏa. Tỷ lệ doanh nghiệp FDI sử dụng nhà cung cấp trong nước chỉ chiếm khoảng 10 - 20%.
Trong khi đó, liên kết giữa các doanh nghiệp nội địa cũng còn yếu. Doanh nghiệp chủ yếu hoạt động đơn lẻ, phân mảnh chuỗi sản xuất. Do chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có đủ nguồn lực để đầu tư vào công nghệ, nhân lực chất lượng cao nên cạnh tranh với nhau bằng giá thay vì hợp tác. Việt Nam cũng thiếu các doanh nghiệp kiểm soát chuỗi, ít doanh nghiệp đủ lớn để làm lead firm để dẫn dắt các doanh nghiệp khác cũng phát triển. Các yếu tố trên dẫn đến thực trạng nền kinh tế bị phân mảnh, thiếu sự phối hợp và sức mạnh tổng hợp để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Chuyên gia khuyến nghị các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho công nghệ, đổi mới sáng tạo, hạ tầng số; ưu đãi, hỗ trợ chứng nhận xanh, xây dựng thương hiệu, thúc đẩy tuân thủ xanh - EPR/CBAM; chuẩn hóa dữ liệu truy xuất, nền tảng số theo dõi vòng đời sản phẩm, tạo môi trường kinh doanh xanh.
Ngoài ra, rà soát yêu cầu về bền vững đối với các công đoạn của chuỗi giá trị bền vững với tất cả các khâu nghiên cứu - thiết kế - sản xuất - logistics - marketing - phân phối - dịch vụ sau bán hàng để tạo giá trị gia tăng cao, nâng cao khả năng cạnh tranh, kiểm soát chất lượng sản phẩm; tìm giải pháp giảm chi phí logistics, ưu tiên dự án cảng/kho lạnh/đường giao thông để đưa chi phí của logistics đạt mục tiêu 15% GDP; đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng để giảm rủi ro trước biển động thuế và địa chính trị; phát triển mạnh hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và tăng cường kết nối và dịch vụ kết nối
Chuyên gia nhấn mạnh Việt Nam cần tiếp tục tập trung thực hiện các đột phá chiến lược đã đưa ra gần đây, bao gồm Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và NQ 57-NQ/TW (2025) về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
"Các giải pháp đưa ra cần lấy doanh nghiệp làm trung tâm, tạo ra môi trường thuận lợi để doanh nghiệp có thể đóng góp cho nền kinh tế bứt phá, có thể tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn tới", ông Tuấn nói.
Đỗ Kiều
