Thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, 15 ngày đầu tháng 7, Việt Nam nhập khẩu hơn 2,4 triệu tấn than, kim ngạch hơn 141,5 triệu USD. Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/7 đạt hơn 33,9 triệu tấn, tổng kim ngạch hơn 2,4 tỷ USD.
Sản lượng than nhập khẩu từ đầu năm đến nay trung bình khoảng 5,2 triệu tấn/tháng. |
So với cùng kỳ năm 2019, lượng than nhập khẩu tăng mạnh tới hơn 11 triệu tấn, tương đương tăng 49,2%, trong khi kim ngạch chỉ tăng khoảng 245 triệu USD, tương đương tăng hơn 11%.
Theo Quy hoạch ngành than Việt Nam đến năm 2020 có xét triển vọng đến năm 2030, nhu cầu than của cả nước trong năm nay lên đến 86,4 triệu tấn. Trong đó, sản lượng dành cho nhiệt điện là 64,1 triệu tấn; xi măng: 6,2 triệu tấn; phân bón, hóa chất: 5 triệu tấn; luyện kim: 5,3 triệu tấn; các đối tượng khác: 5,8 triệu tấn.
Cũng tại Quy hoạch này, sản lượng khai thác than trong nước năm nay chỉ ước tính đạt từ 47 - 50 triệu tấn. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu, trong năm 2020, Việt Nam phải nhập khẩu từ 36,4 - 39,4 triệu tấn than.
Tuy nhiên, thực tế với sản lượng nhập khẩu trung bình khoảng 5,2 triệu tấn/tháng như từ đầu năm đến nay, sản lượng than nhập khẩu trong cả năm 2020 sẽ vượt xa dự tính, lên tới khoảng 62 triệu tấn.
Trước đó, trong năm 2019, Việt Nam đã nhập khẩu gần 43,8 triệu tấn than, tăng tới 91,5% so với năm 2018.
Hiện nay, 3 thị trường nhập khẩu than lớn nhất của Việt Nam là Australia, Indonesia và Nga.
Theo đó, cập nhật của Tổng cục Hải quan cho thấy, hết tháng 6, Australia đã vượt Indonesia để trở thành nhà cung cấp than lớn nhất cho Việt Nam với sản lượng hơn 10,8 triệu tấn, tổng kim ngạch gần 935 triệu USD, tăng 3,77 triệu tấn so với cùng kỳ năm 2019, kim ngạch tăng 140 triệu USD.
Trong khi đó, sản lượng nhập khẩu từ Indonesia là hơn 9,8 triệu tấn, kim ngạch 842 triệu USD, tăng hơn 2,5 triệu tấn, nhưng kim ngạch chỉ tăng khoảng 22 triệu USD so với cùng kỳ.
Thị trường Nga đạt gần 4,35 triệu tấn, kim ngạch gần 353 triệu USD, tăng hơn 670.000 tấn, kim ngạch tăng khoảng 28 triệu USD.
P.L