Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), trong 9 tháng đầu năm, tổng giá trị trái phiếu đã được các doanh nghiệp mua lại đã lên đến hơn 142.000 tỷ đồng, tăng 67% so với cùng kỳ năm ngoái.
Gia tăng mua lại trái phiếu trước hạn
Trong đó, ngân hàng tiếp tục dẫn đầu trong nhóm mua lại trái phiếu nhiều nhất từ đầu năm, theo sau là các doanh nghiệp bất động sản.
Ngoài nhóm ngân hàng, Gelex (GEX) là cái tên hiếm hoi đang niêm yết nằm trong danh sách top 20 doanh nghiệp mua lại trái phiếu nhiều nhất từ đầu năm với nhiều đợt mua, tổng giá trị lên đến hơn 2.000 tỷ đồng.
Doanh nghiệp ồ ạt mua lại trái phiếu trước hạn đồng nghĩa với việc dòng tiền đổ vào thị trường chứng khoán sẽ ngày càng “hụt” trầm trọng. (Ảnh: Int) |
Mặc dù không nằm trong top đầu nhưng nhiều doanh nghiệp đang niêm yết cũng đã và đang có kế hoạch mua lại lượng lớn trái phiếu trước hạn.
Chẳng hạn như Novaland (NVL) đã có 3 đợt mua lại trái phiếu trước hạn từ đầu năm với tổng giá trị hơn 1.150 tỷ đồng; Chứng khoán VIX đã có 2 đợt mua lại trái phiếu trước hạn từ đầu năm với tổng giá trị 500 tỷ đồng; Becamex IDC (BCM) cũng đã mua lại 579 tỷ đồng trái phiếu trước hạn; Bất động sản An Gia (AGG) mới đây đã thông qua phương án mua lại 300 tỷ đồng trái phiếu sau khi đã mua lại 680 tỷ đồng trái phiếu trước hạn từ đầu năm.
Nhìn chung, hiện tượng doanh nghiệp mua lại trái phiếu trước thời hạn xuất hiện hàng loạt kể từ sau sự kiện hủy các lô trái phiếu của Tập đoàn Tân Hoàng Minh vào tháng 4 vừa qua. Đặc biệt từ sau vụ việc mới đây là Vạn Thịnh Phát, xu hướng mua lại trái phiếu trước hạn của các doanh nghiệp ngày càng trở nên rầm rộ.
Đáng chú ý, làn sóng mua lại trái phiếu trước hạn diễn ra mạnh mẽ hơn hẳn trong bối cảnh dư nợ cho vay tại các công ty chứng khoán (CTCK) đã bất ngờ tăng trở lại trong quý III vừa qua.
Trong bối cảnh tâm lý nhà đầu tư (cá nhân chiếm chủ yếu) vẫn rất thận trọng sau những biến động vừa qua, nhiều khả năng, sự gia tăng dư nợ margin thời gian gần đây đến từ các hoạt động đi vay của doanh nghiệp, cổ đông lớn để bù đắp sự thiếu hụt nguồn vốn do siết chặt trái phiếu và room tín dụng hạn chế.
Theo ông Bùi Văn Huy, Giám đốc Chi nhánh Chứng khoán DSC, con số này ước tính khoảng 20.000 tỷ đồng trong quý vừa qua.
“Hiện tại, nguồn tiền của các CTCK còn khá nhiều và chuyên gia này cho rằng xu hướng trên sẽ vẫn có thể tiếp diễn trong quý IV”, ông Huy đánh giá.
Song cũng cần phải nhìn nhận rằng, nguồn lực này cũng bị hạn chế bởi quy định giới hạn cho vay ký quỹ tối đa 2 lần vốn chủ sở hữu. Theo thống kê, tổng vốn chủ sở hữu của các CTCK tại thời điểm cuối quý III vào khoảng 180.000 tỷ, tương ứng dư nợ margin tối đa 360.000 tỷ đồng. Như vậy, các CTCK ước tính sẽ còn khoảng 200.000 tỷ đồng có thể cho vay margin trong thời gian tới.
Trong khi đó, áp lực mua lại trái phiếu trước hạn của các doanh nghiệp là rất lớn, nhất là sau khi Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), có hiệu lực từ ngày 16/9. Theo đó, doanh nghiệp phải mua lại TPDN trước hạn bắt buộc khi vi phạm phương án phát hành (trong đó có phương án sử dụng vốn) hoặc vi phạm pháp luật. Ngoài ra, áp lực còn đến từ lượng lớn TPDN sẽ đáo hạn trong thời gian tới.
Hàng trăm ngàn tỷ đồng trái phiếu sắp tới hạn
Trong báo cáo về thị trường TPDN của Chứng khoán VCBS, ước tính trong quý IV/2022 có khoảng 85.000 tỷ đồng trái phiếu do các ngân hàng (NH), doanh nghiệp (DN) bất động sản phát hành phải đáo hạn, đồng thời khối lượng TPDN đáo hạn trong năm 2023 và 2024 ước tính khoảng 790.000 tỷ đồng.
Chứng khoán VNDirect cũng chỉ ra có khoảng 58.840 tỷ đồng TPDN riêng lẻ sẽ đáo hạn trong quý IV năm nay, trong đó tỉ lệ đáo hạn của trái phiếu do DN bất động sản, NH chiếm lần lượt là 34,1% và 32,9%.
Thực tế, trong dữ liệu của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) cho biết, từ tháng 8/2023, một số NH lớn phải thanh toán hàng ngàn tỷ đồng trái phiếu do mình phát hành.
Dữ liệu HNX cũng cho thấy, đến tháng 12/2022 có khá nhiều DN bất động sản phải đáo hạn hàng trăm tỷ đồng trái phiếu. Chẳng hạn như có hai DN hạng trung ở TP HCM đến hạn thanh toán tổng số tiền 500 tỷ đồng TPDN. Ngoài ra, hàng chục doanh nghiệp khác phải đáo hạn hàng chục ngàn tỷ đồng TPDN trong năm 2023.
TS Lê Đạt Chí (Trường ĐH Kinh tế TP HCM) nhận định, các NH cho vay thông qua việc mua TPDN và nếu đến thời điểm thanh toán, DN phát hành gặp khó khăn thì khoản cho vay đó sẽ rơi vào nợ xấu. Do đó, NH sẽ phải dùng lợi nhuận để trích lập dự phòng rủi ro cho khoản nợ này, ảnh hưởng không tốt đến kết quả kinh doanh. Đây cũng là yếu tố này được cho là tác động không tốt đến cổ phiếu ngành NH.
"Với việc đến hạn hoặc phải mua lại trước hạn trái phiếu do mình phát hành trước đó, các NH phải dùng đến số tiền đang kinh doanh để thanh toán. Khi đó, nguồn vốn của NH có thể thiếu hụt, tạo áp lực tăng lãi suất tiền gửi để thu hút vốn nhằm cân đối dòng tiền ra vào" - ông Chí phân tích.
Về phía các DN đến hạn đáo nợ, trong bối cảnh NH hạn chế cho vay, DN chỉ còn phương án duy nhất là phát hành mới trái phiếu để thanh toán cho các đợt phát hành trước. Đồng nghĩa với việc, lượng tiền đổ vào thị trường chứng khoán tiếp tục bị hạn chế do dòng tiền lớn khó có thể tham gia trở lại thị trường. Trong khi đó, dòng tiền là yếu tố tiên quyết cho sự hồi phục của thị trường.
“Khối lượng đáo hạn và khả năng trả gốc và lãi trái phiếu, cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp sẽ là yếu tố cần theo dõi trong thời gian tới. Điều này cũng đồng nghĩa rủi ro thanh khoản tăng đối với thị trường tài chính nếu không có các biện pháp kiểm soát tốt”, VCBS lưu ý.
Hải Giang