Với giả định đại dịch COVID-19 sẽ được kiểm soát trong và ngoài nước, báo cáo nhận định khu vực dịch vụ của Việt Nam sẽ dần phục hồi khi người tiêu dùng và nhà đầu tư lấy lại niềm tin, trong khi lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo được hưởng lợi nhờ nhu cầu ổn định từ Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc. Thâm hụt ngân sách và nợ công được kỳ vọng sẽ vẫn bền vững, với tỷ lệ nợ trên GDP dự kiến là 58,8%, thấp hơn nhiều so với mức trần theo quy định.
Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam công bố báo cáo điểm lại cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam. |
Tuy nhiên, theo WB, triển vọng này vẫn ẩn chứa nhiều rủi ro, đặc biệt là diễn biến chưa rõ ràng của đại dịch. Sự bùng phát của các biến thể mới có thể dẫn đến việc phải tái áp đặt các biện pháp giãn cách xã hội, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế. Nhu cầu trong nước yếu hơn kỳ vọng có thể ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của Việt Nam.
Ngoài ra, nhiều đối tác thương mại của Việt Nam đang phải đối mặt với dư địa tài khoá và tiền tệ bị thu hẹp, có thể sẽ hạn chế khả năng tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế của các nước này nếu cuộc khủng hoảng kéo dài. Điều này có thể làm chậm sự phục hồi toàn cầu và làm suy yếu nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Bà Dorsati Madani, Chuyên gia kinh tế cao cấp (WB), cho biết nhìn lại năm 2021, kinh tế Việt Nam đứng trước các cú sốc của dịch bệnh rất nghiêm trọng nên tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn 2020.
Đồng thời, vị thế kinh tế đối ngoại vẫn vững chắc nhưng thặng dư án cân vãng lai đã giảm. Cán cân vãng lai chuyển từ thặng dư 4,6% GDP năm 2020 sang thâm hụt 1,0% GDP năm 2021… Ngoài ra, các gói hỗ trợ tài khóa còn nhỏ và manh mún ở mức 1,8% GDP được thực hiện.
Nói về triển vọng 2022, bà Dorsati cho biết tăng trưởng GDP ước đạt 5,5%, lạm phát khoảng 3,6% (dưới ngưỡng khoảng 4%); cán cân vãng lai chuyển từ thâm hụt 1,0% vào năm 2021 sang thặng dư 1,7% GDP; Cân đối thu, chi ngân sách nhà nước ổn định ở mức khoảng 4,4% GDP.
Đồng thời, chuyên gia kinh tế cao cấp của WB cũng nêu ra 4 rủi ro, đó là đại dịch diễn biến khó lường, các biến chủng mới có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam và các nước đối tác.
Thứ hai là hệ quả xã hội nghiệm trọng của khủng hoảng, người lao động và hộ gia đình mất việc làm.
Thứ ba là cầu trong nước cần được thúc đẩy, hộ gia đình có thể do dự trong chi tiêu, doanh nghiệp có thể do dự trong đầu tư và điều này có thể ảnh hưởng đến lộ trình hướng tới tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững.
Và cuối cùng là khu vực tài chính đang đối mặt với rủi ro tăng cao. Nợ xấu gia tăng và rủi ro giảm chất lượng tài sản của ngân hàng làm tăng khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thực.
Bà Dorsati Madani đánh giá: "Nền kinh tế Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ, phụ thuộc vào việc kiểm soát dịch bệnh, cũng như phục hồi nhu cầu trong nước".
Bên cạnh đó, báo cáo của WB cũng cho biết Việt Nam đã bắt đầu thực hiện giảm phát thải carbon trong các hoạt động liên quan đến thương mại. Tuy nhiên, Việt Nam cần hành động quyết liệt hơn nữa để ứng phó với áp lực gia tăng từ các thị trường xuất khẩu chính, khách hàng và công ty đa quốc gia với yêu cầu những sản phẩm và dịch vụ phải xanh và sạch hơn.
“Thương mại sẽ là hợp phần chính trong chương trình hành động vì khí hậu của Việt Nam trong những năm tới,” Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia của WB tại Việt Nam cho biết. “Thúc đẩy thương mại xanh sẽ không chỉ giúp Việt Nam thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 mà còn giữ được lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đảm bảo thương mại tiếp tục là nguồn tạo thu nhập và việc làm quan trọng.
Thy Lê