Theo các chuyên gia, hiện nay người Việt đang dư tiền sẽ tạo cơ hội cho thị trường vốn phát triển. (Ảnh minh hoạ: Int) |
Tại Diễn đàn “Phát triển thị trường vốn - Cơ hội trong kỷ nguyên mới” ngày 30/3, các chuyên gia cho rằng, dù có sự phát triển vượt trội, nhưng thị trường vốn vẫn phải đối diện với nhiều thách thức, cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để thị trường hoạt động một cách hiệu quả và bền vững.
Theo các chuyên gia, nếu như năm 2000, khi thị trường chứng khoán mới mở cửa, vốn hóa thị trường chỉ đạt 986 tỷ đồng, tương đương 0,28% GDP, các doanh nghiệp hầu như phải huy động vốn qua kênh tín dụng ngân hàng, thì sau 2 thập kỷ, mức vốn hóa thị trường cổ phiếu Việt Nam tính đến cuối năm 2020 tương đương 83% GDP năm 2019.
Tính đến hết tháng 2/2021, vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 5.600 nghìn tỷ đồng (tương đương 89% GDP năm 2020) với 880 mã cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh, 909 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM.
Hàng trăm nghìn tỷ đồng đã được các doanh nghiệp, các ngân hàng huy động qua thị trường chứng khoán, tạo nên bức tranh cân đối của thị trường vốn Việt Nam.
Ông Vũ Dương Hiền, Chủ tịch CTCP Tập đoàn Hapaco chia sẻ, tham gia thị trường chứng khoán là cơ hội để doanh nghiệp đa dạng các kênh huy động vốn, tranh thủ nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội.
Vị doanh nhân này cho biết, lần đầu tiên phát hành cổ phiếu ra công chúng, Hapaco huy động được 32 tỷ đồng, thặng dư vốn tăng trưởng 320%. Từ khi tham gia thị trường chứng khoán, vốn điều lệ của doanh nghiệp tăng mạnh, từ 10,8 tỷ đồng đến nay đạt trên 1.000 tỷ đồng, tăng gần 100 lần so với khi chưa cổ phần hóa. Hàng năm, Hapaco đạt mức tăng trưởng trên 20%.
Thị trường trái phiếu Việt Nam cũng đang phát triển rất mạnh mẽ, khép lại năm 2020 với tốc độ tăng trưởng được đánh giá cao nhất trong khu vực Đông Á mới nổi. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng trên 10,86% GDP.
Đặc biệt, kênh dẫn vốn qua ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ đạo cung cấp nguồn vốn trên thị trường, chiếm tới 70%.
Tuy nhiên, nhìn nhận về thị trường vốn Việt Nam, các chuyên gia đánh giá, dù có sự phát triển vượt trội, nhưng vẫn phải đối diện với nhiều thách thức.
Chẳng hạn, trên thị trường tín dụng, thách thức hiện hữu là các ngân hàng khó tăng năng lực tài chính, trong khi nguy cơ nợ xấu ngày một dày lên, do hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh đều chịu ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19.
Cùng với đó, nhiều hình thái tín dụng, thanh toán gắn công nghệ với tài chính xuất hiện, trong khi Việt Nam chưa có chính sách để quản lý.
Trên thị trường chứng khoán, Luật Chứng khoán mới có hiệu lực thi hành từ đầu năm 2021 với nhiều chính sách được cải thiện nhằm nâng tầm thị trường. Tuy nhiên, tình trạng nghẽn lệnh trên sàn chứng khoán tạo nên thách thức hiện hữu cho các mục tiêu lớn và dài hạn, như nâng hạng thị trường, tăng quy mô, tăng tính chuyên nghiệp và thu hút dòng vốn nước ngoài vào thị trường vốn Việt Nam.
Vì vậy, các ý kiến cho rằng cần sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để thị trường hoạt động bền vững.
Đối với thị trường chứng khoán, ở góc nhìn của chuyên gia độc lập, TS. Cấn Văn Lực đánh giá, để phát triển bền vững, đòi hỏi những nỗ lực nâng tầm quản trị doanh nghiệp, tính chuyên nghiệp của cộng đồng nhà đầu tư và khả năng điều hành thị trường của cơ quan quản lý.
Ông Lực dự báo, con người và công nghệ là 2 đột phá; tính minh bạch, chuyên nghiệp là kim chỉ nam cho sự phát triển tới đây trên thị trường vốn Việt Nam.
Đối với thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nên tiếp tục duy trì môi trường lãi suất thấp, khuyến khích phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp các hoạt động khởi nghiệp trong môi trường vốn rẻ. Việc duy trì lãi suất thấp và tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, qua đó cũng sẽ giảm áp lực lên lạm phát khi nền kinh tế đang hoạt động dưới mức sản lượng tiềm năng.
Bên cạnh đó, môi trường lãi suất thấp có thể giúp các ngân hàng thương mại đang thiếu vốn có điều kiện thuận lợi tăng vốn đáp ứng các yêu cầu đủ vốn theo nguyên tắc Basel II.
Để làm được điều này, các chính sách của NHNN một mặt cần duy trì môi trường lãi suất thấp, mặt khác cũng cần phải củng cố uy tín, độ tin cậy của NHNH trong việc bảo vệ ổn định giá cả và điều hành chính sách tiền tệ.
Ở khía cạnh khác, môi trường lãi suất thấp cũng khuyến khích các hoạt động đầu cơ vào thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán và có thể tạo ra các “bong bóng tài sản”, tiềm ẩn bất ổn trong tương lai. Do đó, cùng với các chính sách duy trì lãi suất thấp, Chính phủ cũng cần phải có các giải pháp đồng bộ để thực hiện kiểm soát thị trường bất động sản, tránh để thị trường phát triển quá "nóng".
T.Hoa