Thậm chí, hiện nay, nhiều chủ doanh nghiệp (DN) còn mơ hồ là mình có phải thuộc diện DN siêu nhỏ hay không. Vấn đề này đã được đưa ra mổ xẻ tại buổi đối thoại mới đây giữa DN với Cục Thuế Tp.HCM.
Đại diện công ty TNHH Đầu tư giải pháp quản lý Sài Gòn (quận Tân Bình) đặt câu hỏi: Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa có hiệu lực từ năm 2018 có hướng dẫn cụ thể về xác định loại DN. Vậy DN có vốn điều lệ 5 tỷ đồng và có dưới 10 lao động thì có được xem là DN siêu nhỏ hay không?
Số lượng ngày càng lớn
Trả lời câu hỏi này, đại diện Cục Thuế Tp.HCM cho biết ngày 11/3/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa (có hiệu lực từ ngày ký ban hành). Theo đó, DN nhỏ và vừa được phân theo quy mô, bao gồm DN siêu nhỏ, DN nhỏ, DN vừa theo từng lĩnh vực.
Trong đó, ở lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, xây dựng, DN siêu nhỏ được quy định là có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, DN siêu nhỏ được quy định có số lao động tham gia BHXH bình quân không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
Trường hợp DN siêu nhỏ hoạt động trong nhiều lĩnh vực thì căn cứ lĩnh vực có doanh thu cao nhất. Trường hợp không xác định được lĩnh vực có doanh thu cao nhất thì căn cứ vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động nhất.
Về tổng nguồn vốn (được xác định trong bảng cân đối kế toán, bao gồm vốn, chủ sở hữu và nợ phải trả), tổng doanh thu của năm thể hiện trên báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà DN nộp cho cơ quan thuế, phía công ty căn cứ quy định trên để xác định quy mô DN cho phù hợp với tình hình thực tế tại DN mình.
Được biết, đến nay vẫn chưa có số liệu cập nhật mới nhất về tổng số DN siêu nhỏ trên cả nước xét theo các quy định mới nêu trên. Nhưng theo số liệu được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố khoảng 4 năm trước, số DN siêu nhỏ (sử dụng dưới 10 lao động) chiếm 66 – 67% trong số DN nhỏ và siêu nhỏ.
Còn theo số liệu thống kê từ tổng điều tra kinh tế – xã hội năm 2017, số DN siêu nhỏ trong năm vừa qua tăng 65,5% so với năm trước đó, chiếm 74% tổng số DN ở Việt Nam.
Riêng quý I/2018, cả nước có 26.785 DN thành lập mới với tổng số vốn đăng ký 278.489 tỷ đồng. Số DN đăng ký thành lập mới phần lớn là những DN có quy mô vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng, chiếm 90% trên tổng số DN đăng ký mới.
![]() |
Số DN siêu nhỏ đang chiếm đến 74% tổng số DN ở Việt Nam |
Khó phát triển vì tầm nhìn hẹp
Vấn đề đặt ra là với số lượng lớn như vậy nhưng “sức khoẻ” của các DN siêu nhỏ như thế nào, họ có khả năng trụ vững rồi lớn lên thành DN nhỏ và vừa, hay lại vẫn loay hoay ở dạng siêu nhỏ hoặc đuối quá thì thành lập mới một thời gian rồi rơi vào “điệp khúc” đóng cửa, giải thể?
Trao đổi với Thời báo Kinh Doanh, chuyên gia kinh tế Nguyễn Hoàng Dũng cho rằng xuất phát ban đầu của nhiều DN siêu nhỏ là những hộ kinh doanh cá thể với kinh nghiệm mua đi bán lại hàng hóa, sau đó có điều kiện thì đầu tư thêm vào sản xuất. Nhân sự của họ phần lớn là người thân trong gia đình.
Thực ra, theo ông Dũng, thời gian đầu mới thành lập, nhiều DN siêu nhỏ hoạt động khá tốt và cũng có tầm nhìn chiến lược. Tuy nhiên, thời gian sau, có nhiều DN siêu nhỏ kiểu gia đình lại quen với cách làm cũ và ngại với cách làm mới vì sợ đảo lộn trật tự trong hoạt động DN và thiếu niềm tin khi thay đổi.
Điều đáng nói, nhiều DN siêu nhỏ thường có quan niệm bảo thủ rằng khi đầu tư là muốn có ngay doanh số, sớm có lợi nhuận. Trong khi đó, việc đầu tư là phải tính đến dài hạn, thời gian thu hồi lại khá lâu, chưa chắc bảo đảm sớm có lợi nhuận. Chính vì vậy mà các DN siêu nhỏ kiểu gia đình thường không mạnh dạn đột phá làm theo cách mới.
Chuyên gia Nguyễn Hoàng Dũng chỉ rõ: nguồn lực mỏng, vốn hạn hẹp nhưng có những DN siêu nhỏ lại không có thói quen đi vay vốn ngân hàng vì sợ thiếu nợ. Bên cạnh đó, nếu đáp ứng nhu cầu vay thì họ phải có bản kế hoạch, chiến lược, phương án sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của phía ngân hàng, rồi còn vấn đề công khai minh bạch sổ sách chứng từ (điều mà các DN gia đình không muốn).
Vì vậy, việc vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất, nâng tầm quy mô đối với các DN siêu nhỏ vẫn còn hạn chế lớn. Cho nên, rốt cuộc, các DN này rơi vào vòng luẩn quẩn vì tầm nhìn nhỏ nên cứ bé mãi!
Không vay vốn nên DN siêu nhỏ không có công nghệ mới, phương tiện thiết bị cũ kỹ, quy trình làm việc cũng cũ, cộng thêm việc ít chịu khám phá thị trường mới, khách hàng mới.
Trong khi đó, chính bản thân DN siêu nhỏ còn chủ quan không biết rằng DN mình đang chịu áp lực cạnh tranh dữ dội từ rất nhiều đối thủ tiềm tàng có thể đe dọa sự tồn tại của họ trong tương lai.
Thế Vinh