Các đại biểu nhận định điện hạt nhân mô-đun nhỏ (SMR) là một hướng đi đáng cân nhắc và phù hợp với điều kiện Việt Nam, trong bối cảnh cam kết Net Zero vào năm 2050 đang đến gần và nhu cầu điện năng ngày càng lớn. SMR là cơ hội để Việt Nam vừa đảm bảo an ninh năng lượng, vừa từng bước làm chủ công nghệ cao.
![]() |
|
Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh, đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cho ý kiến. |
Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh, đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng bày tỏ quan điểm đồng tình với quy định khuyến khích doanh nghiệp khu vực nhà nước và tư nhân tham gia nghiên cứu, đầu tư phát triển điện hạt nhân mô-đun nhỏ. Theo bà, cách tiếp cận mới này cho phép huy động sáng tạo kỹ thuật, tăng khả năng nội địa hóa và chủ động công nghệ.
Đại biểu phân tích, lĩnh vực này đòi hỏi nguồn lực lớn, công nghệ cao, chuỗi cung ứng dài hạn. Nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước thì không thể tạo được hệ sinh thái công nghiệp hạt nhân hiện đại. Việc huy động doanh nghiệp nhà nước cùng doanh nghiệp tư nhân sẽ giúp đa dạng hóa nguồn lực, chia sẻ rủi ro và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh đó, nhiều nước đã chứng minh mô hình công - tư mang lại hiệu quả cao. Doanh nghiệp tư nhân có động lực đầu tư, tiếp cận công nghệ nhanh. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, bảo đảm an ninh - an toàn và định hướng chiến lược. Sự kết hợp này giúp rút ngắn thời gian nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai dự án.
Khuyến khích doanh nghiệp nghiên cứu và đầu tư SMR cũng đồng nghĩa mở ra cơ hội hình thành ngành công nghiệp chế tạo mô-đun trong nước, tạo việc làm chất lượng cao và nâng vị thế khoa học - công nghệ của Việt Nam trong chuỗi giá trị hạt nhân toàn cầu.
Tuy nhiên, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh lưu ý, việc khuyến khích doanh nghiệp tham gia không có nghĩa là “mở cửa hoàn toàn”, phát triển SMR phải đi kèm với điều kiện: an toàn - trách nhiệm - minh bạch.
Từ đó, đại biểu kiến nghị xây dựng khung pháp lý riêng cho SMR, bao gồm cấp phép thiết kế, thẩm định công nghệ, giám sát vận hành và kiểm soát chất thải phóng xạ. Song song, yêu cầu năng lực tài chính, năng lực công nghệ, và trách nhiệm môi trường rõ ràng đối với mọi doanh nghiệp tham gia, bảo đảm Nhà nước giữ vai trò kiểm soát cuối cùng. Và triển khai thận trọng, có lộ trình.
“Khuyến khích không phải là buông lỏng, mà là tạo hành lang để những chủ thể có năng lực thực sự phát triển công nghệ mới, trong khi Nhà nước giữ vai trò điều tiết và giám sát tối cao”, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh nhấn mạnh.
Chung quan điểm, đại biểu Nguyễn Thị Lan, đoàn ĐBQH TP Hà Nội nhận định, giai đoạn đầu cần có vai trò dẫn dắt của Nhà nước. "Rất khó thu hút khu vực tư nhân khi suất đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài và rủi ro cao", đại biểu phân tích.
Theo bà, mục tiêu trước mắt chủ yếu là phục vụ nghiên cứu, đào tạo nhân lực và từng bước làm chủ công nghệ chứ chưa thể kỳ vọng ngay vào hiệu quả kinh tế ngắn hạn. Sau khi Việt Nam tích lũy đủ kinh nghiệm, kiểm soát tốt an toàn, hoàn thiện khung pháp lý và làm chủ công nghệ cốt lõi mới từng bước mở rộng quy mô để thu hút tư nhân.
Đại biểu Phạm Văn Hòa, đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp cho rằng quy định khuyến khích doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân tham gia nghiên cứu đầu tư trong dự thảo còn quá chung chung, cần làm rõ hơn.
Đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy, đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long nhận định, việc mở rộng cho tư nhân tham gia theo quy định của dự thảo Nghị quyết mới chỉ dừng lại ở “dạng khẩu hiệu”, khuyến khích chung chung, thiếu khung chính sách cụ thể. Với thời hạn Nghị quyết chỉ trong 5 năm, đại biểu bày tỏ băn khoăn, việc triển khai loại hình này là khó khả thi, do đó cần xem xét kỹ lưỡng hơn.
Đỗ Kiều
