Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, tháng 5/2022, Việt Nam xuất khẩu được 114,15 nghìn tấn cao su, trị giá 194,85 triệu USD, tăng 45,7% về lượng và tăng 37,8% về trị giá so với tháng 4/2022; so với tháng 5/2021 tăng 38,1% về lượng và tăng 36,1% về trị giá. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu cao su đạt 599,43 nghìn tấn, trị giá 1,05 tỷ USD, tăng 8,9% về lượng và tăng 13,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Phụ thuộc hơn 67% vào thị trường Trung Quốc
Tháng 5/2022, Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam, chiếm 67,2% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, với 76,75 nghìn tấn, trị giá 124,58 triệu USD, tăng 68,1% về lượng và tăng 57,7% về trị giá so với tháng 4/2022; so với tháng 5/2021 tăng 47,2% về lượng và tăng 44,8% về trị giá.
Xuất khẩu cao su vẫn phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. |
Tuy nhiên, giá cao su xuất khẩu bình quân sang Trung Quốc ở mức 1.623 USD/tấn, giảm 6,1% so với tháng 4/2022 và giảm 1,6% so với tháng 5/2021. Lũy kế 5 tháng đầu năm 2022, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 402,64 nghìn tấn cao su, trị giá 686,75 triệu USD, tăng 7,3% về lượng và tăng 13,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, Việt Nam hiện có khoảng 926.000 ha cao su, bao gồm đại điền (chủ yếu là các công ty nhà nước) và tiểu điền. Trong đó, tiểu điền chiếm diện tích và sản lượng ngày càng lớn so với đại điền (chiếm 51% về diện tích và hơn 60% về sản lượng). Trung Quốc luôn là thị trường tiêu thụ cao su tự nhiên chủ yếu của Việt Nam trong thời gian qua và sự dễ tính từ thị trường này làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô nhỏ thuộc khu vực tư nhân, chưa quan tâm nhiều đến việc thay đổi theo hướng đầu tư nâng cao chất lượng.
Trong khi đó, khâu xuất khẩu các sản phẩm cao su được chế biến sâu với hàm lượng giá trị gia tăng cao chủ yếu được đầu tư bởi các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI. Tốc độ mở rộng xuất khẩu của các sản phẩm này lớn hơn rất nhiều so với tốc độ mở rộng xuất khẩu của nhóm nguyên liệu thô. Nói cách khác, các doanh nghiệp tư nhân và FDI có động lực mở rộng thị trường lớn hơn so với các doanh nghiệp nhà nước ở khâu xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh.
Một trong những lý do có thể là bởi các doanh nghiệp tư nhân và FDI có sức ép hơn về cạnh tranh từ thị trường và người tiêu dùng. Mặc dù duy trì xuất khẩu nguyên liệu thô ít mang đến rủi ro cho doanh nghiệp và tạo việc làm, cải thiện cơ sở hạ tầng cho vùng nông thôn, góp phần phủ xanh để bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, xuất khẩu thô sẽ hạn chế lợi ích lâu dài cho ngành và chịu tác động lớn của giá cả trên thị trường thế giới.
Bên cạnh đó, dù nhu cầu trên thị trường thế giới đối với sản phẩm cao su tăng mạnh. Tuy nhiên, năm 2022, Tập đoàn cao su Việt Nam đặt mục tiêu khá thận trọng là doanh thu và thu nhập khác hơn 29.700 tỷ đồng, lãi trước thuế 6.480 tỷ đồng, tương đương nhích nhẹ 5% và 4% so với mức thực hiện năm trước.
Theo ông Phạm Văn Thành, thành viên Hội đồng quản trị của Tập đoàn Cao su Việt Nam, ngoài các mảng cốt lõi như đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao... hiện cao su vẫn là mảng đóng tỷ trọng cao nhất trên 50%.
"Mặc dù năm 2022 thời tiết thuận lợi hơn năm trước, giúp sản lượng mủ cao su có thể gia tăng, nhưng tập đoàn vẫn bị áp lực vì chi phí điện tăng, chi phí phân bón tăng gấp đôi", ông Thành cho biết.
Loay hoay phát triển chứng chỉ bền vững
Bên cạnh đó, ngành cao su cũng đang đẩy mạnh mở rộng vùng trồng đạt chứng chỉ phát triển bền vững (FSC). Ông Phan Đỗ Trọng Nhân, Quản lý thu mua - Trưởng Ban FSC, công ty TNHH Cao su Liên Anh (Tây Ninh), cho biết năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp này là 200.000 tấn/năm. Với định hướng phát triển bền vững ngành sản xuất cao su, căn cứ trên nhu cầu thực tế của các đối tác, khách hàng của công ty, đồng thời hiểu rõ tầm quan trọng và tính hữu ích của chứng nhận FSC. Công ty đã liên kết, ký hợp đồng với những nhà vườn có diện tích lớn từ 100 - 350ha, ngoài ra còn ký hợp đồng thêm khoảng 40 nhà vườn từ 50 ha đến dưới 100 ha. Tổ chức tập huấn những nhà vườn biết về FSC.
Kim ngạch xuất khẩu cao su từ năm 2020 đến nay. |
Có chứng nhận FSC, nhà vườn có thị trường ổn định hơn, tốt hơn. Giá bán cao su có chứng chỉ cao hơn so với mủ cao su không có chứng chỉ trước đây, không bị cạnh tranh khi tham gia nhóm chứng chỉ. Hòa nhập được xu thế thị trường cao su có chứng chỉ rừng của trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, ông Nhân cho biết doanh nghiệp cũng đối mặt với một số khó khăn như nhà vườn vẫn chưa hiểu về FSC, mất nhiều thời gian để liên kết và giải thích cho nhà vườn, chi phí để thực hiện cấp chứng chỉ nhiều và cao. Rất nhiều nhà vườn không chịu bỏ ra 10% diện tích rừng để bảo tồn vì ảnh hưởng đến kinh tế của họ. Cạnh tranh về giá nguyên liệu cao.
Đồng thời, ông Nhân cho hay công ty phải nghiên cứu chính sách giá mua phù hợp, đồng thời duy trì đại lý lấy nguyên liệu của các hộ tiểu điền để được ký hợp đồng với nhà vườn.
Theo Hiệp hội Cao su Việt Nam, áp lực phát triển bền vững đã thúc đẩy ngành cao su tiếp tục tăng cường vai trò cải thiện môi trường và điều kiện xã hội tại vùng cao su. Tuy có khó khăn bước đầu vì sự chuyển đổi mô hình quản lý và sản xuất nhưng trong lâu dài sẽ đưa ngành cao su tăng hiệu quả kinh tế hơn và bền vững lâu dài.
Theo đó, Nhà nước cần tập khung pháp lý thúc đẩy và khuyến khích các mô hình quản lý rừng cao su bền vững, nông lâm kết hợp, bảo vệ môi trường và hướng đến đạt chứng nhận quốc gia hoặc quốc tế.
Tuyên truyền, vận động, các hộ kinh doanh hình thành các tổ hợp tác sản xuất cao su theo từng cụm để có điều kiện áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa trong sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất. Thường xuyên tổ chức tập huấn cho các hộ dân, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật nâng cao trình độ quản lý, năng lực sản xuất bền vững cho các hộ cao su tiểu điền.
Về phía doanh nghiệp, xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình phát triển bền vững theo pháp luật quốc gia và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Chuyển dần phương thức canh tác nông lâm tổng hợp, đa dạng hóa thu nhập, tăng hiệu quả kinh tế sử dụng đất. Áp dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất xanh và sạch trong chuỗi cung ứng.
Bên cạnh đó, xây dựng các mô hình liên kết, hỗ trợ nông dân cao su tiểu điền tham gia chương trình phát triển cao su bền vững của doanh nghiệp, tạo nguồn cao su bền vững để cung cấp cho thị trường, góp phần xây dựng thương hiệu và uy tín của ngành cao su Việt Nam.
Lê Thúy