Tại Tọa đàm: Phương thức đầu tư PPP – kinh nghiệm quốc tế và ý nghĩa chính sách đối với quản lý tài chính, ngân sách tại Việt Nam ngày 14/1, đại diện Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá Việt Nam hiện nay rất khó huy động vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng (CSHT), nên ngân sách nhà nước phải dành 5,7% GDP để đầu tư CSHT, cao nhất ở Đông Nam Á và cao hơn Ấn Độ. Vì vậy, Việt Nam cần có những giải pháp thu hút đầu tư tư nhân nhằm giúp thu hẹp khoảng cách về CSHT với các quốc gia khác.
5,7% GDP đầu tư CSHT
Theo Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017-2018 do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) công bố, Việt Nam xếp thứ 79 trong số 137 quốc gia về chất lượng CSHT nói chung. Chỉ có 20% đường bộ của Việt Nam được trải nhựa, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác như Malaysia, Ấn Độ và Indonesia.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) ước tính nhu cầu đầu tư CSHT của Việt Nam sẽ vào khoảng 480 tỷ USD trong giai đoạn 2017-2030.
Tuy nhiên, hiện nay, nguồn vốn dành cho các dự án đầu tư CSHT chủ yếu sử dụng ngân sách nhà nước. Trong khi quy mô nền kinh tế còn chưa lớn, khả năng tích lũy hạn chế dẫn đến việc duy trì đầu tư ở mức độ cao cho kết cấu hạ tầng ảnh hưởng đến bảo đảm cân đối vĩ mô, đến phát triển chung của toàn nền kinh tế. Đồng thời, việc đầu tư lớn cho kết cấu hạ tầng dẫn đến gây áp lực đối với trần nợ công cao; việc tiếp cận các nguồn vốn vay giá rẻ như ODA giảm cũng gây áp lực lên vấn đề nợ công.
Do đó, các chuyên gia cho rằng sử dụng hình thức đầu tư đối tác công - tư (PPP) được xem là giải pháp hiệu quả để phát triển hạ tầng cũng như trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao... trong bối cảnh nguồn ngân sách còn hạn hẹp hiện nay.
“Nguồn vốn đầu tư của cả xã hội là rất lớn, trong khi vốn đầu tư của Nhà nước lại có giới hạn. Không chỉ giải quyết vấn đề về vốn, cơ chế PPP sẽ giải quyết được cả việc quản lý chất lượng công trình sau đầu tư. Vì vậy, việc sẵn sàng mở cửa và tiếp cận những nguồn vốn lớn, những nhà đầu tư tiềm năng theo một cơ chế hợp lý là vấn đề phải đặt ra trong lúc này”, một chuyên gia đánh giá.
Thực tế, thời gian qua, Việt Nam cũng đã “mở cửa” kêu gọi vốn đầu tư tư nhân vào các dự án CSHT. Tuy nhiên, việc gọi vốn vẫn còn hạn chế. Theo số liệu thống kê của Bộ KH&ĐT, đến nay, Việt Nam đã thu hút được khoảng 150 dự án đầu tư theo hình thức PPP, không tính các công trình đầu tư theo hình thức BT (hợp đồng xây dựng - chuyển giao), với tổng mức đầu tư trên 1 triệu tỷ đồng (khoảng 50 tỷ USD).
Do đó, việc cải cách thủ tục hành chính để cải thiện môi trường đầu tư, thu hút nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng vẫn đang là một thách thức lớn đối với các cơ quan Chính phủ.
Các chuyên gia WB cho biết nhiều thị trường mới nổi đã sử dụng PPP để thực hiện những dự án đầu tư CSHT. PPP huy động vốn từ khu vực tư nhân và mang lại nhiều lợi ích.
PPP được xem là giải pháp hiệu quả để phát triển CSHT |
Cơ chế chia sẻ rủi ro
Đại diện WB phân tích: PPP cho phép các chính phủ đầu tư hình thành các tài sản khu vực công, đồng thời tránh được những khoản chi ngân sách lớn, trả trước. Ví dụ, hiện nay Thái Lan chi hơn 1% GDP để đầu tư CSHT, Malaysia gần 2%, Philippines hơn 2%, Indonesia gần 3%, trong khi Việt Nam dành đến 5,7% GDP đầu tư vào CSHT.
Theo đánh giá của WB, cơ hội đầu tư vào các dự án PPP có thể khuyến khích và phát triển thị trường tài chính Việt Nam, cả bằng vốn vay ngân hàng và sử dụng tiềm năng thị trường vốn, thông qua việc thu hút các nguồn vốn đầu tư khác nhau, tận dụng chuyên môn về tài chính và khuyến khích đổi mới, sáng tạo tại Việt Nam.
“Khi sử dụng được nguồn vốn tư nhân trong nước, Chính phủ không phải hỗ trợ về mức độ sẵn có của ngoại tệ, khả năng chuyển đổi và tỷ giá hối đoái”, WB đánh giá.
Tuy nhiên, WB cho rằng bên cạnh ưu điểm đó, việc huy động nguồn vốn trong nước tạo ra những hạn chế trong việc thẩm định dự án CSHT để có thể tài trợ mà không cần bảo đảm. Cùng với đó, sẽ hạn chế cạnh tranh với các đơn vị phát triển trong nước nhiều kinh nghiệm đã tìm được ngân hàng sẵn sàng hỗ trợ các đề xuất của họ. Ngoài ra, các dự án lớn có thể vượt quá khả năng cấp vốn của thị trường trong nước.
Trong khi đó, nguồn vốn PPP từ nước ngoài sẽ tiếp cận được đến nhiều tổ chức tín dụng lớn hơn và chuyên sâu hơn, có thể đảm nhận được các dự án lớn; giảm toàn bộ chi phí tài chính nhờ lãi suất USD thấp. Việc cạnh tranh giữa các nhà đầu tư nước ngoài cũng giúp Việt Nam quản lý tài khoá tốt hơn.
Thực tiễn cho thấy hầu hết các dự án được thực hiện kiểm toán đều áp dụng hình thức chỉ định thầu để lựa chọn nhà đầu tư, tiềm ẩn rủi ro lãng phí, thất thoát và chọn nhà đầu tư không có đủ năng lực thực hiện dự án. Công tác giám sát trong quá trình thực hiện hợp đồng còn lỏng lẻo.
Chỉ nói riêng lĩnh vực giao thông, các chính sách phí trong chưa hoàn thiện, chưa có mức phí hoàn vốn cho đường cao tốc, đường thủy nội địa, đường sắt, hàng hải, hàng không, được cho là những trở ngại lớn.
Theo đó, các chuyên gia kiến nghị bên cạnh việc phải nâng cao được vai trò của Nhà nước, cần có cơ chế hỗ trợ của Chính phủ giúp thúc đẩy các hình thức đối tác.
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế, chuyên gia Hàn Quốc cho biết nước này có chính sách đảm bảo doanh thu tối thiểu bằng cách hỗ trợ tài chính ban đầu, sau khi PPP tăng trưởng nhanh chóng, Hàn Quốc thay thế bằng Chương trình chia sẻ rủi ro doanh thu, hỗ trợ tài chính 30-50% tổng chi phí dự án.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, từ năm 2012 đến nay, Chính phủ cam kết bảo lãnh doanh thu tối thiểu cho các dự án giao thông, thực hiện thanh toán theo dịch vụ cho các dự án bệnh viện; cam kết nhận nợ đối với bên cho vay trong trường hợp chấm dứt hợp đồng.
Ông Sanjay Grover, Văn phòng hợp tác công-tư của ADB, cho rằng cơ chế chia sẻ rủi ro chỉ nên áp dụng cho các dự án khả thi, chỉ sử dụng khi cần thiết hoặc khi đảm bảo hiệu quả chi phí và áp dụng đa dạng các hình thức hỗ trợ của Chính phủ sẽ hiệu quả hơn.
“Cơ chế chia sẻ rủi ro trong các dự án là quan trọng để giúp Việt Nam thu hút được nguồn vốn tư nhân”, ông Sanjay Grover nói.
Thanh Hoa
Ông Vũ Đại Thắng - Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Bên cạnh việc ưu tiên sử dụng nguồn ngân sách nhà nước, Chính phủ đã quan tâm thúc đẩy và thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân, đặc biệt là thông qua phương thức đầu tư PPP. Những dự án với nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân quan trọng này đã góp phần cải thiện rõ rệt chất lượng CSHT ở Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian qua. Ông Nguyễn Văn Thắng - Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh Một đồng ngân sách bỏ ra có thể huy động được từ 8 - 9 đồng từ khối tư nhân tham gia đầu tư vào dự án CSHT ở Quảng Ninh. Nhiều công trình trọng điểm đầu tư theo phương thức PPP đã hoàn thành và phát huy được hiệu quả sau đầu tư như Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, cầu Bạch Đằng, cao tốc Hạ Long - Vân Đồn… Đây là một trong những động lực quan trọng giúp tỉnh Quảng Ninh có bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua. Ông Nguyễn Đăng Trương - Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu, Bộ KH&ĐT Việc nâng cấp quy định về PPP từ Nghị định lên cấp Luật là một bước tiếp theo, đặc biệt quan trọng để hoàn thiện khung pháp lý về PPP tại Việt Nam. Qua đó, giải quyết được những vướng mắc hiện tại do chồng chéo giữa các luật, đáp ứng được kỳ vọng của cộng đồng nhà đầu tư trong và ngoài nước, giúp điều hành thống nhất, ổn định hoạt động đầu tư theo phương thức PPP, mở ra nhiều cơ hội mới để thu hút vốn tư nhân đầu tư vào kết cấu hạ tầng quốc gia trong thời gian tới. |