Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong số 49 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới đầu tư vào ngành gỗ 5 tháng đầu năm 2019 có tới 21 dự án của Trung Quốc, tương đương 43% tổng vốn FDI đầu tư vào ngành gỗ.
Nhiều rủi ro tiềm ẩn
Tại Hội thảo “Tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung đối với ngành gỗ Việt: Chuyển dịch đầu tư nước ngoài, cơ hội và rủi ro trong xuất nhập khẩu” cuối tuần qua, ông Tô Xuân Phúc, chuyên gia phân tích chính sách của Tổ chức Forest Trends, cho biết đầu tư của Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2019 chủ yếu tập trung vào mảng chế biến gỗ (16 dự án) và ván nhân tạo (4 dự án).
Trên 50,07 triệu USD từ các dự án FDI mới của Trung Quốc đã được đăng ký trong 5 tháng đầu năm 2019, cao hơn gần 1,7 lần cùng kỳ năm 2018. Tuy nhiên, quy mô vốn đầu tư trên mỗi dự án chỉ là 2,1 triệu USD, nhỏ hơn nhiều so với con số 4,2 triệu USD cùng kỳ năm trước.
Theo ông Phúc, một trong những nguyên nhân dẫn đến việc gia tăng về các dự án với quy mô nhỏ có thể là do trong bối cảnh Mỹ áp dụng các mức thuế mới đối với hàng hóa từ Trung Quốc, các doanh nghiệp (DN) nước này mở đầu tư các nhà máy nhỏ tại Việt Nam nhằm tranh thủ lợi thế về xuất xứ. Rủi ro xảy ra nếu các DN này nhập các mặt hàng gỗ từ Trung Quốc, sơ chế tại các nhà máy ở Việt Nam, sau đó xuất sang Mỹ nhằm né thuế.
Các dự án mới từ Đài Loan cũng có quy mô rất nhỏ. Có thể đây là các dự án từ các công ty của Đài Loan đã có hoạt động sản xuất kinh doanh tại Trung Quốc. Việc mở thêm dự án tại Việt Nam giúp các công ty này tránh được mức thuế mới với sản phẩm từ Trung Quốc. Bên cạnh đó, một số DN từ Hồng Kông cũng tăng đột biến về quy mô vốn, tuy nhiên chưa rõ nguyên nhân.
Phân tích cụ thể, Báo cáo “Đầu tư và chuyển dịch đầu tư nước ngoài trong ngành gỗ Việt Nam thời gian vừa qua” do các chuyên gia, DN gỗ trong nước thực hiện cho thấy, các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu (NK) lớn nhất từ Trung Quốc vào Việt Nam là gỗ dán, đồ nội thất và ván lạng.
Giá trị NK của ba nhóm mặt hàng này lên tới 80% tổng kim ngạch NK tất cả các mặt hàng gỗ từ Trung Quốc vào Việt Nam năm 2018. Kim ngạch NK từ Trung Quốc vào Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh.
“Hiện chưa có bất cứ đánh giá nào về mức độ rủi ro trong các mặt hàng gỗ NK từ Trung Quốc vào Việt Nam. Tuy nhiên, đã có bằng chứng cho thấy một số công ty của Trung Quốc đã nhập một số mặt hàng gỗ từ Trung Quốc, sau đó xuất vào thị trường Mỹ với nhãn mác sản phẩm Việt Nam. Điều này giúp các công ty Trung Quốc tránh được thuế chính phủ Mỹ áp dụng cho các mặt hàng gỗ từ Trung Quốc”, Báo cáo nêu.
Bên cạnh đó, hiện đang xuất hiện một số công ty của Trung Quốc thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị của các công ty Việt Nam, sản xuất các sản phẩm với nhãn mác và chứng nhận xuất xứ Việt Nam, sau đó XK vào thị trường Mỹ.
Đặc biệt, dù chưa có thống kê đối với các nhà máy của Việt Nam được mua bằng vốn của Trung Quốc dưới dạng cổ phần, nhưng có thể xảy ra tình trạng các nhà máy của Việt Nam có vốn đầu tư của Trung Quốc dưới dạng cổ phần tạo ra các sản phẩm có xuất xứ tại Việt Nam và XK đi Mỹ.
![]() |
Ngành gỗ tiềm ẩn nhiều rủi ro từ chiến tranh thương mại Mỹ – Trung |
Điều tra hoạt động của doanh nghiệp
Bà Trần Thị Thu Hương, Giám đốc Trung tâm xác nhận chứng từ thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết số lượng DN mới XK mặt hàng gỗ ván ép vào Mỹ đang tăng nhanh chóng. Năm 2017, tổng số DN là 29, năm 2018 lên 49, đầu năm 2019 đến nay, số DN vẫn tăng lên dù quy mô không lớn.
Bà Hương lo ngại, nếu DN không tuân thủ tốt quy định về quy tắc xuất xứ sẽ rất nguy hiểm. Nếu DN Việt Nam không vững vàng sẽ dễ bị đối tác nước ngoài lợi dụng để trà trộn xuất xứ hàng hóa, đây sẽ là hiểm họa lớn cho DN Việt, sau đó ảnh hưởng lớn tới ngành hàng XK của Việt Nam.
Ông Tô Xuân Phúc đánh giá, một số tín hiệu trên đã cho thấy đầu tư FDI, đặc biệt với nguồn vốn Trung Quốc vào trong ngành gỗ Việt Nam có yếu tố bất bình thường. Điều đó đòi hỏi các cơ quan chức năng cần có những đánh giá về vai trò và mục đích của các dự án đầu tư này.
Việc lợi dụng nhãn mác xuất xứ Việt Nam đối với các mặt hàng từ Trung Quốc có thể trở thành phổ biến nếu các cơ quan chức năng Việt Nam không có biện pháp xác định sản phẩm ngăn chặn hữu hiệu. Đây là hành vi gian lận thương mại có thể gây ra những tổn hại lớn cho ngành gỗ Việt.
Thực tế, chính phủ Mỹ đang thực hiện điều tra 5 công ty của Mỹ NK ván ép có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng có chứng nhận xuất xứ của Việt Nam. Hành vi gian lận thương mại này có thể là nguyên nhân dẫn đến việc mở rộng XK mặt hàng gỗ/ván ép của Việt Nam vào thị trường Mỹ.
Bà Hương cho biết, VCCI đã có chỉ đạo sát sao đến các tổ cấp C/O trên cả nước tăng cường kiểm tra giám sát tại cơ sở sản xuất của DN trước khi đưa ra quyết định có cấp hay không cấp C/O.
Tuy nhiên, hiện nay, gian lận cũng có nhiều mức độ như DN không tồn tại trên thực tế, hay nói cách khác là DN ma, không có nhà xưởng, máy móc – đây là mức độ nguy hiểm nhất, hay có trường hợp DN có nhà xưởng máy móc nhưng sản lượng sản xuất không đủ nên nhập thêm hàng để XK.
Vì vậy, bà Hương cho rằng để ngăn chặn tốt gian lận cần sự hợp tác đồng bộ của các cơ quan nhà nước. “Nhiều khi chúng tôi có đi kiểm tra cũng rất khó đánh giá được năng lực của DN có đáp ứng được hay không. Chưa kể, thực tế còn cho thấy nhiều DN đứng tên DN Việt Nam, nhưng đứng sau là nguồn vốn, công nghệ của Trung Quốc. Do vậy, nguồn thông tin dữ liệu từ cơ quan hải quan rất quan trọng, đây là cơ quan giám sát nguồn nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra”, bà Hương nói.
Trước tình trạng trên, ông Tô Xuân Phúc kiến nghị các cơ quan quản lý cần có đánh giá tổng thể về các loại hình rủi ro trong cả các dự án đầu tư FDI và trong các sản phẩm XK. Đánh giá rủi ro trong các dự án FDI cần bao gồm đánh giá cả về dự án mở rộng, các dự án mua cổ phần, sáp nhập DN. Cũng cần có các đánh giá tình trạng thực tế về các DN ngoại, đặc biệt các DN của Trung Quốc thuê máy móc, thiết bị, nhà xưởng và nhân công của Việt Nam để sản xuất các sản phẩm phục vụ XK.
Đánh giá cũng cần thực hiện đối với nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào của các công ty mới có vốn FDI, đặc biệt là các công ty từ Trung Quốc, bao gồm cả trong các dự án FDI mới, các dự án mở rộng và các dự án mua cổ phần. Để làm được việc này, các cơ quan chức năng trung ương cần phối hợp với các cơ quan địa phương, nhằm rà soát tổng thể các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN FDI trong ngành trong thời gian vừa qua.
Đại diện Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cũng đồng tình việc Bộ KH&ĐT cần siết chặt, quản lý thu hút đầu tư, cũng như cơ quan hải quan có trách nhiệm kiểm tra xuất xứ cả NK và XK. Việc tăng cường quản lý là đúng, tuy nhiên tránh làm mất uy tín của ngành gỗ Việt Nam, một vài DN có thể gian lận nhưng không để Mỹ cho rằng cả ngành sản xuất gỗ Việt Nam tiếp tay cho gian lận.
Lê Thúy
Ông Cao Chí Công - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Quy trình cấp phép C/O cần được kiểm tra chặt chẽ, đảm bảo giấy chứng nhận chỉ được cấp cho các DN và sản phẩm có đủ điều kiện phải đạt tỷ lệ phần trăm giá trị theo quy định (tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm…). Chúng ta cũng cần hợp tác chặt chẽ với các cơ quan của Mỹ nhằm góp phần giảm rủi ro trong mối quan tâm của chính phủ Mỹ đối với hàng hóa của Việt Nam, bao gồm các mặt hàng gỗ XK vào thị trường này. Ông Trương Hữu Thắng - Giám đốc công ty TNHH Tập đoàn gỗ Hương Sơn (Bắc Giang) Thực tế DN lớn của Trung Quốc khó có thể dịch chuyển sang Việt Nam vì còn liên quan tới nhà máy, lao động…, nên sự dịch chuyển của các nhà máy có quy mô nhỏ vào Việt Nam là điều dễ hiểu. Việt Nam rất hoan nghênh đầu tư, nhưng cần thu hút đầu tư một cách nghiêm túc. DN Việt Nam cũng cần tránh việc tiếp tay cho gian lận thương mại để phải chịu rủi ro. Ông Tô Xuân Phúc - Tổ chức Forest Trends Điều DN cần là Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam có văn bản đề nghị Tổng cục Hải quan siết chặt nguồn gốc nguyên liệu gỗ được nhập về Việt Nam, chứ như chúng tôi biết hiện giờ gỗ Trung Quốc vào Việt Nam rất dễ dàng, bằng nhiều con đường khác nhau, nhất là đường mòn biên giới. |