Nhu cầu than trong nhiều ngành công nghiệp khác nhìn chung vẫn tương đối cao.
Những kết quả đáng quan tâm
Theo nghiên cứu của một số chuyên gia phân tích ngành năng lượng và biến đổi khí hậu được đăng tải mới đây trên trang Carbon Brief, tính chung trên toàn cầu trong năm nay, sản lượng của các nhà máy nhiệt điện than sẽ giảm 3%, tương đương 300 tỷ kWh.
Đây là mức giảm mạnh nhất trong sản xuất điện than ghi nhận được từ trước đến nay. Kết quả này có đóng góp đáng kể từ việc giảm sản lượng của các nhà máy điện ở châu Âu và Mỹ.
Ấn Độ cũng sẽ giảm lượng điện than trong năm nay, lần đầu tiên trong vòng 3 thập kỷ qua, trong khi Trung Quốc vẫn duy trì như cũ.
Hai quốc gia đông dân nhất thế giới này nắm vai trò quan trọng trong thị trường điện than khi vừa là những nước dẫn đầu thế giới về sản xuất, tiêu dùng và nhập khẩu than – loại nguyên liệu bị cho là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng khí thải carbon trong bầu khí quyển Trái đất.
Nghiên cứu cũng dự báo tốc độ tăng lượng khí thải toàn cầu có khả năng sẽ chậm lại trong năm 2019.
Những nhận định này rõ ràng có vẻ tích cực với vấn đề biến đổi khí hậu. Song bên cạnh đó, cũng có những con số thống kê khác chỉ ra rằng nhu cầu đối với than ngày càng tăng và thách thức cho việc giảm sử dụng than vì thế ngày càng lớn.
Lượng than đá toàn cầu được vận chuyển bằng đường thủy, cả nhiệt than để sử dụng trong các nhà máy điện và than cốc để sản xuất thép, có thể sẽ tăng trong năm nay sau 3 năm ổn định.
Cụ thể, theo dữ liệu theo dõi tàu và cảng của Refinitiv, trong 10 tháng đầu năm 2019, lưu lượng than toàn cầu vận chuyển bằng đường biển là 1,19 tỷ tấn. Giả sử 2 tháng cuối năm cũng duy trì ở mức tương tự thì tổng cả năm 2019 sẽ đạt khoảng 1,43 tỷ tấn. Từ năm 2016 – 2018, con số này chỉ là 1,32 tỷ tấn/năm. Điều này có nghĩa là năm nay có thể tăng khoảng 8,3%.
Trung Quốc và Ấn Độ vẫn là 2 quốc gia có nhu cầu than lớn nhất thế giới, hiện chiếm khoảng 60% lượng điện than toàn cầu.
Sản lượng than nội địa của Trung Quốc trong 10 tháng đầu năm nay đã tăng thêm 3,06 tỷ tấn, tức tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2018. Xu hướng này được dự báo sẽ còn tiếp tục từ nay đến cuối năm.
Nhập khẩu than của Trung Quốc cũng đạt mức cao nhất kể từ năm 2013 và có thể vượt 300 triệu tấn. Trong 10 tháng đầu năm, nước này đã nhập khẩu 276,2 triệu tấn, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2018.
Nhu cầu sử dụng than nhìn chung vẫn tương đối cao |
Giảm chỗ này, tăng chỗ khác
Coal India, doanh nghiệp nhà nước dẫn đầu về sản lượng than tại Ấn Độ, đã gặp không ít khó khăn trong năm nay do tình hình lũ lụt và bất ổn lao động.
Tính từ tháng 4 đến nay, Coal India chỉ sản xuất được 280,36 triệu tấn than, giảm 8,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Công ty khai thác than lớn nhất thế giới này đã cố gắng tăng sản lượng trong tháng 10 sau khi tháng 9 chỉ đạt mức thấp nhất trong vòng 6 năm. Tuy vậy, kết quả chỉ là 39,35 triệu tấn, vẫn giảm 20,9% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhiều khả năng công ty sẽ không thể thực hiện được mục tiêu 650 triệu tấn cho năm tài chính tính đến tháng 3/2020, mà chỉ có thể xoay xở để đạt mức 606 triệu tấn như năm trước.
Nhập khẩu than của Ấn Độ trong 10 tháng đầu năm chỉ đạt 169,7 triệu tấn. Dù kết quả nhập khẩu giảm dần trong những tháng gần đây, con số cuối cùng của năm 2019 nhiều khả năng ít nhất cũng tương đương với mức 195,3 triệu tấn của năm 2018.
Nhu cầu than trong nhiều ngành công nghiệp khác nhìn chung vẫn tương đối cao. Trong khi lượng than dùng cho sản xuất điện có xu hướng giảm trong năm 2019 thì việc sử dụng than cho các ngành công nghiệp khác như xi măng, gốm sứ hay thép có thể sẽ tăng lên.
Theo ước tính, khoảng 40 triệu tấn, tương đương 20% lượng than nhập khẩu của Ấn Độ hiện đang dành cho các ngành công nghiệp như xi măng, và khoảng 50 triệu tấn dùng cho sản xuất thép.
Đây thực sự là một thách thức không nhỏ đối với những nhà hoạch định chính sách và nhà hoạt động khí hậu đang tìm cách nhanh chóng “khai tử” việc sử dụng than.
Hải Châu