Bà Nguyễn Thị Lê Na, người sáng lập và điều hành CTCP nông nghiệp sinh thái Ecovi (Tp.HCM), cho biết hành trình của doanh nghiệp (DN) và rất nhiều người làm nông nghiệp sinh thái có vẻ cô độc, đôi khi tiếng nói khá lẻ loi và chưa được tiếp cận nhiều với khoa học trong lĩnh vực này.
Còn lắm nỗi trăn trở
Mặc dù vậy, như chia sẻ của bà Na, đang có nhiều người trẻ, hộ nông dân mong muốn đi theo mô hình nông nghiệp sinh thái. Tuy nhiên, khó khăn lớn là họ không có nền tảng khoa học cho một lĩnh vực nông nghiệp như vậy trong khi vừa phải hướng đến hiệu quả trong công việc kinh doanh.
Người làm nông nghiệp sinh thái vẫn lo đơn độc trong việc tiếp cận với khoa học và công nghệ. |
Phía Ecovi hiện đang hoạt động trong lĩnh vực cung cấp các giải pháp để phát triển các làng du lịch đặc sản sinh thái ở những trang trại (Farm) cho ngành nông nghiệp, trong đó dựa trên 3 nền tảng là FarmLap, FarmShop và FarmTour. DN này còn cung cấp giải pháp chuyển đổi canh tác sinh thái cho một số hợp tác xã (như ở tỉnh Hoà Bình với diện tích 200ha).
Theo bà Na, trong năm 2022, công ty sẽ phát triển dịch vụ cung cấp hệ thống quy trình canh tác sinh thái sử dụng bằng công nghệ để ứng dụng cho 2 loại trái cây là bưởi và thanh long ở tỉnh Vĩnh Phúc. Vậy nhưng, DN lại đang gặp khó khăn trong việc làm sao để tiếp cận, kết hợp được các nhà khoa học trong lĩnh vực này.
Còn ở góc nhìn của một chuyên gia tư vấn chiến lược chuyển đổi số, ông Vũ Tuấn Anh - người đồng sáng lập của một mạng lưới gồm 1.000 người (trong đó các DN khởi nghiệp) chuyên làm nông nghiệp sinh thái và ứng dụng nông nghiệp số, cho biết trên các trang mạng xã hội Facebook hiện có hàng chục nhóm chuyên chia sẻ, thảo luận về phát triển nông nghiệp sinh thái với hàng chục ngàn người trẻ và các nhà nông tham gia.
Như lưu ý của ông Tuấn Anh, điều mà những người này trăn trở thông qua trang mạng xã hội khi làm các trang trại sinh thái chính là làm sao có thể gia tăng giá trị cho mảnh đất của họ.
“Là một chuyên gia trong hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam, tôi đề nghị nên kết hợp hệ sinh thái nông nghiệp với hệ sinh thái khởi nghiệp và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Khi kết hợp như vậy, chúng ta sẽ nâng cao được các giá trị của nông nghiệp sinh thái lên rất nhiều”, ông Tuấn Anh nhấn mạnh.
Ngoài ra, theo vị chuyên gia này, thách thức cho con đường để đưa nông nghiệp sinh thái đến với thị trường chính là trong tâm trí của người tiêu dùng. Một số người tiêu dùng sẵn sàng bỏ tiền ra mua nông sản được làm sạch và tử tế với giá cao, nhưng liệu có bao nhiêu khách hàng sẵn sàng như thế cũng là một dấu hỏi cho những người kinh doanh nông nghiệp sinh thái.
Tháo gỡ ngay bất cập
Trong xu hướng hiện nay, nông nghiệp sinh thái ở Việt Nam với đặc trưng rất đa dạng đang được đánh giá cao khi có thể mang lại những lợi ích về bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm và giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên, hoạt động này hiện chỉ mới manh nha ở một số vùng trong cả nước. Đơn cử như việc mở các Farm trồng rau, lúa, chăn nuôi theo nông nghiệp hữu cơ và phát triển mạnh những vùng rất đô thị.
Ở trong nước hiện đang có 6 nhóm nông nghiệp sinh thái, gồm: Nông lâm kết hợp (với diện tích 900.000ha); quản lý sâu bệnh tổng hợp (IPHM); thâm canh lúa cải tiến (đang tiến hành ở Đồng bằng sông Cửu Long); hệ thống nông nghiệp kết hợp trồng trọt - chăn nuôi - thủy sản (với quy mô trang trại lớn); canh tác hữu cơ (với các loại cây trồng trên diện tích 237.000ha); nông nghiệp bảo tồn cảnh quan (nhất là ở khu vực miền núi, trên đất dốc).
Theo PGs.Ts. Đào Thế Anh, Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (Bộ NN&PTNT), để nông nghiệp phát triển bền vững thì nên tích hợp đa giá trị thông qua chuyển đổi nông nghiệp sinh thái.
“Xét về thị trường, việc người tiêu dùng chấp nhận các sản phẩm được dán nhãn nông nghiệp sinh thái là một yếu tố rất quan trọng để khuyến khích cho nông dân cùng các chủ thể trong chuỗi giá trị”, ông Thế Anh nói.
Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam cho rằng chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp sinh thái cũng chỉ là những hỗ trợ mang tính ban đầu. Còn việc hình thành các chuỗi giá trị và dán nhãn sản phẩm nông nghiệp sinh thái rất cần tiến hành sớm.
Bất cập hiện nay là ở Việt Nam đang thiếu các tổ chức chứng nhận sản phẩm sinh thái, hữu cơ chuyên nghiệp. Thậm chí, nhiều DN muốn xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp sinh thái phải mời các công ty chứng nhận quốc tế với chi phí cao, làm đội giá thành.
Trong khi đó, bên cạnh chứng chỉ hữu cơ PGS (Hệ thống cùng tham gia đảm bảo chất lượng) phát triển từ năm 2008 đến nay, còn có hình thức chứng nhận bên thứ ba của DN do Bộ KH&CN, Bộ NN&PTNT cấp phép. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực mới nên năng lực của DN trong nước ở mảng chứng nhận này khá hạn chế.
Ngoài vấn đề về dán nhãn, giới chuyên gia khuyến nghị nên có chính sách thúc đẩy các dịch vụ nông nghiệp sinh thái và du lịch sinh thái kết hợp. Và đặc biệt là nên kết hợp chuyển đổi số với chuyển đổi nông nghiệp sinh thái.
Hơn nữa, để sản phẩm nông nghiệp sinh thái trở thành hàng hoá phổ biến ở ngay trên “sân nhà” đòi hỏi cần có sự khuyến khích, hỗ trợ từ thị trường. Và bản thân những chủ thể làm nông nghiệp sinh thái như nông dân, các hợp tác xã, DN cũng cần đa dạng các sản phẩm và chuyên nghiệp hơn.
Thế Vinh