Ông Takimoto Koji, Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) tại Tp.HCM, cho biết qua khảo sát các doanh nghiệp (DN) Nhật mới đây, khi được hỏi về rủi ro trong môi trường đầu tư, có hơn 60% DN lưu ý về vấn đề giá nhân công tăng.
73% DN Nhật cũng bày tỏ sự lo lắng về việc tăng lương cho nhân viên sở tại, đứng đầu trong 5 hạng mục về khó khăn trong kinh doanh tại Việt Nam của DN Nhật.
Đứng ngồi không yên
Ông Takimoto Koji cho rằng tỷ lệ tăng lương cơ bản của Việt Nam vào khoảng 7%/năm, năm 2018 so với năm 2017 tăng khoảng 6,5%. Trên thực tế, mức tăng lương ở Việt Nam dù có khuynh hướng tăng ít dần nhưng so sánh với nước khác vẫn ở mức cao.
Mặt khác, cùng với việc tăng lương, chi phí đóng bảo hiểm xã hội cũng tăng lên, nên đã gây ra chi phí sản xuất tăng đột biến đối với nhiều DN.
Không ít ý kiến quan ngại sẽ xuất hiện thời điểm chi phí lao động cao đến mức DN không còn thu được lợi nhuận kỳ vọng khi đầu tư vào các ngành chế tạo dùng nhiều lao động ở Việt Nam. Điều này chắc chắn sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của DN trong dài hạn.
Việc giá điện sẽ tăng 8,36% trong tháng 3/2019 (có thể có sự thay đổi so với con số dự kiến này nhưng ở mức độ rất nhỏ – PV) cũng đang khiến nhiều DN "đứng ngồi không yên".
Trao đổi với Thời báo Kinh Doanh, ông Lê Quốc Hiệp, Giám đốc một DN trong ngành cơ khí ở Tp.HCM, cho biết điều này dẫn đến việc gia tăng chi phí, khiến các DN thâm dụng điện (như ngành cơ khí, sản xuất phôi thép, vật liệu xây dựng…) kém cạnh tranh và khó phát triển.
Ngay bản thân ngành điện như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng đội chi phí khi giá nguyên liệu đầu vào cho nhiệt điện than là than sản xuất trong nước và than trộn đang tăng giá bán. Theo đó, chi phí mua than cho sản xuất điện năm 2019 của EVN có thể sẽ tăng thêm khoảng 5.500 tỷ đồng.
"Nếu tính đúng, tính đủ để bù vào việc đội chi phí thì giá điện được điều chỉnh tăng lên, gây tác động dây chuyền đến nhiều lĩnh vực khác ở trong nước. Khi đó, chi phí sản xuất tăng cao, DN tăng giá bán sản phẩm để bù chi phí giá điện tăng, sẽ làm giảm sức cạnh tranh về giá của hàng hoá trong nước so với hàng ngoại nhập", ông Hiệp chia sẻ.
Hoặc như các DN nội trong ngành thép – một ngành tiêu hao nhiều điện năng, việc tăng chi phí do giá điện tăng, cộng với chi phí phôi thép đầu vào tăng cao trong khi giá thép thành phẩm không tăng tương ứng, viễn cảnh khó khăn là khó tránh khỏi.
Chưa kể, tình trạng cung vượt cầu vẫn tiếp diễn, dẫn tới sự cạnh tranh giữa các DN ngành thép nhằm duy trì thị phần sẽ càng gay gắt hơn.
Nhiều chi phí tăng khiến DN "đứng ngồi không yên" |
Tạo chính sách và hạ tầng
Bên cạnh hai vấn đề nêu trên, chi phí cho thuế và các hoạt động xuất nhập khẩu cũng là áp lực lớn cho DN. Một báo cáo phân tích về chi phí cho thấy chi phí bằng tiền cao nhất để nhập khẩu hàng hoá là xếp dỡ và lưu kho tại cảng (chiếm khoảng 30% tổng chi phí nhập khẩu); chi phí bằng tiền cao nhất để xuất khẩu (XK) cũng vẫn là xếp dỡ và lưu kho tại cảng (chiếm khoảng 33% tổng chi phí XK).
Giới chuyên gia cho rằng trong điều kiện hàng XK của Việt Nam có điểm chung là hàm lượng giá trị gia tăng thấp (hầu hết nguyên liệu dùng cho hàng XK phải nhập khẩu), ưu tiên quan trọng là phải cắt giảm thời gian và chi phí nhập khẩu.
Thực tế cho thấy, dù đã có những tiến triển gần đây về cải cách hải quan và triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN, nhưng chi phí tuân thủ tính theo thời gian và chi phí thông quan hàng hóa trước và tại biên giới ở Việt Nam vẫn cao.
Một câu hỏi được đặt ra là cơ quan chức năng nào có thể giúp cho DN giảm bớt các chi phí thương mại? Chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng các cơ quan hữu quan của Chính phủ và khu vực tư nhân là các tác nhân có thể góp phần cắt giảm chi phí thương mại.
Theo chuyên gia WB, để có thể thành công hơn về phương diện cắt giảm chi phí thương mại, điều rõ ràng là Việt Nam không thể chỉ tiếp tục dựa vào cắt giảm thuế quan, mà còn phải nỗ lực để giảm chi phí liên quan đến các biện pháp phi thuế quan và chi phí logistics.
Liên hệ giữa vấn đề chi phí thương mại của DN ở Việt Nam và việc thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), WB cho rằng để gặt hái đầy đủ lợi ích qua đẩy mạnh hội nhập thương mại, tiến trình triển khai các cam kết theo CPTPP cần song hành với các biện pháp tiếp theo nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo thuận lợi thương mại.
"Thách thức hiện nay bao gồm cần tiếp tục cải thiện khả năng kết nối để tạo thuận lợi cho việc hội nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu và giảm chi phí thương mại. Điều này đòi hỏi phải có hạ tầng thể chế và vật chất tốt", WB lưu ý.
Thế Vinh