Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc |
Bên thềm năm mới 2023, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc đã có cuộc trao đổi với báo giới nhằm nhìn nhận lại những khó khăn mà ngành tài chính đã vượt qua trong năm 2022. Cùng đó, kỳ vọng vào những hướng đi mới, sự đột phá, sáng tạo và quyết liệt trong việc ban hành các chính sách hỗ trợ nhằm tạo đà cho doanh nghiệp phát triển.
Trong bối cảnh các nền kinh tế lớn rơi vào lạm phát và đình trệ cao, với vai trò là Tư lệnh ngành tài chính, Bộ trưởng đánh giá như thế nào về việc thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) trong năm 2022?
-Nhìn lại năm 2022 trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, ngành tài chính đã hoàn thành xuất sắc, toàn diện các nhiệm vụ tài chính - NSNN; điều hành chính sách tài khóa chủ động, linh hoạt. Tiếp tục thực hiện miễn, giảm, gia hạn thuế phí, tiền thuê đất, kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất kinh doanh sau dịch bệnh.
Kết quả thu NSNN vượt mức dự toán được giao. Đến ngày 15/12/2022, thu NSNN đã vượt 19,8% so với dự toán, cao hơn 78 nghìn tỷ đồng so với con số đánh giá thực hiện cả năm đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 (tháng 10, 11/2022). Qua đó đảm bảo nguồn lực hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; bù đắp số giảm thu NSNN do thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế, phí, lệ phí; đảm bảo đầy đủ nguồn lực chi đầu tư phát triển và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, các chính sách an sinh xã hội mà không phải tăng bội chi NSNN.
Bên cạnh đó, ngành tài chính đẩy mạnh công tác quản lý thu thuế, nhất là đối với các lĩnh vực thương mại điện tử, bất động sản; quyết liệt xử lý nợ đọng thuế; tăng cường chống thất thu, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế. Chẳng hạn, thu thuế chuyển nhượng bất động sản năm 2022 ước đạt trên 41 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 97% so với năm 2021 (hơn 20 nghìn tỷ đồng).
Tiếp tục cơ cấu lại nợ công. Đến cuối năm 2022, dư nợ công khoảng 43-44% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 40-41% GDP, dư nợ vay nước ngoài của quốc gia bằng khoảng 40-41% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 18-19% tổng thu NSNN, trong phạm vi Quốc hội cho phép.
Thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất, dự kiến khi xây dựng chính sách là 233,5 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, có thêm nguồn lực đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh. Đã thực hiện đến ngày 15/12/2022 khoảng 193,4 nghìn tỷ đồng.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và chính sách phát triển thị trường, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp…
Ngoài ra, Bộ Tài chính đã thực hiện tốt vai trò trong công tác đàm phán, triển khai thực thi hiệu quả các hiệp định thương mại tự do cũng như thực hiện các chương trình hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực tài chính; xây dựng các phương án cam kết, phương án đàm phán và các hợp tác tài chính, đặc biệt là về thuế xuất, nhập khẩu của Việt Nam với chất lượng cao.
Được biết, từ đầu năm 2023, một số chính sách hỗ trợ thuế cho doanh nghiệp sẽ hết hiệu lực. Vậy, Bộ Tài chính có kế hoạch gì để tham mưu trình Chính phủ nhằm tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh còn nhiều khó khăn?
-Dịch Covid-19 xảy ra vào đầu năm 2020 đến nay đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân. Trước tình hình đó, Bộ Tài chính đã chủ động nghiên cứu, đề xuất, trình cấp có thẩm quyền cũng như ban hành theo thẩm quyền các giải pháp về gia hạn các khoản thuế như thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)) và tiền thuê đất; miễn giảm các khoản thuế như thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế nhập khẩu, thuế bảo vệ môi trường (BVMT), phí, lệ phí và tiền thuê đất để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch Covid-19.
Năm 2022, các giải pháp về thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất sẽ hỗ trợ doanh nghiệp, người dân với giá trị tiền thuế, tiền thuê đất, phí, lệ phí dự kiến khoảng 233,5 nghìn tỷ đồng (bao gồm cả số giảm thuế BVMT đối với các mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn). Cụ thể, số tiền được gia hạn khoảng 135 nghìn tỷ đồng; số tiền được miễn, giảm khoảng 98 nghìn tỷ đồng. Đến 15/12/2022, đã thực hiện miễn, giảm, gia hạn gần 200 nghìn tỷ đồng.
Có thể thấy những chính sách nêu trên đã thể hiện sự đột phá, sáng tạo và quyết liệt trong công tác điều hành của Bộ Tài chính trong năm vừa qua. Đặc biệt, các chính sách giảm thuế GTGT áp dụng đối với nhiều hàng hóa, dịch vụ chịu mức thuế suất 10% và giảm thuế BVMT đối với các mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn nêu trên đã có “tác dụng kép”, vừa giúp giảm giá thành hàng hóa, dịch vụ, từ đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội trong điều kiện sức ép lạm phát, chi phí tăng cao.
Bên cạnh những yếu tố tích cực, thuận lợi, dự báo năm 2023 sẽ vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức từ những tác động bất lợi đến kinh tế Việt Nam. Cùng với việc triển khai quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ đã được ban hành, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục theo dõi sát tình hình thực tế để nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phù hợp áp dụng cho năm 2023 như: Gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền thuê đất; giảm thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số nhóm hàng hóa là nguyên liệu, vật tư đầu vào cho sản xuất; giảm thuế BVMT đối với các mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn; giảm tiền thuê đất...
Về lâu dài, quán triệt các chủ trương, định hướng đã được đề ra tại các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục nghiên cứu, tham mưu với các cấp có thẩm quyền nhằm hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách thuế phù hợp với các tiêu chuẩn của hệ thống thuế tốt theo thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu về nguồn lực để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, hướng tới một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, bảo đảm huy động hợp lý các nguồn lực cho NSNN, đồng thời, góp phần tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy cạnh tranh, điều tiết thu nhập hợp lý, phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển bền vững của nền kinh tế.
Thiết lập thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) hoạt động minh bạch, giữ vai trò là kênh gọi vốn hữu hiệu cho doanh nghiệp là vấn đề được dư luận rất quan tâm. Bộ Tài chính sẽ có những giải pháp cụ thể gì để chấn chỉnh và củng cố chất lượng phát triển thị trường trong năm 2023, thưa Bộ trưởng?
-Với quy mô huy động vốn ngày càng tăng, thị trường trái phiếu đã dần khẳng định sự quan trọng là kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả cho doanh nghiệp theo đúng định hướng của Nhà nước: giảm áp lực cung ứng vốn cho nền kinh tế của kênh tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, so với tiềm năng và tương quan với thị trường trong khu vực thì quy mô của thị trường TPDN của Việt Nam còn khá khiêm tốn. Hiện, dư nợ của thị trường TPDN ở mức trên 15% GDP. Trong khi đó, Chiến lược tài chính đặt ra mục tiêu quy mô thị trường TPDN đến năm 2025 là 20% GDP và đến năm 2030 đạt tối thiểu 25% GDP.
Thị trường chứng khoán, trái phiếu trong năm 2022 có nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu từ niềm tin của nhà đầu tư và thanh khoản thị trường trong nước, cũng như tâm lý thận trọng của nhà đầu tư trước những bất ổn và triển vọng kém tích cực về tình hình kinh tế - chính trị thế giới. Đối với thị trường trong nước, việc lãi suất ngân hàng tăng nên có xu hướng tiền dịch chuyển sang hệ thống ngân hàng thương mại và thanh khoản của nền kinh tế khó khăn. Riêng thị trường TPDN còn bị ảnh hưởng bởi niềm tin của nhà đầu tư do các sai phạm của một số doanh nghiệp vừa bị xử lý và việc một số phương tiện truyền thông đưa tin không chính thống, tin thất thiệt về một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Đồng thời, việc kiểm tra, giám sát tập trung vào giám sát mục đích phát hành trái phiếu cũng dẫn đến tâm lý quan ngại của cả doanh nghiệp phát hành và tổ chức cung cấp dịch vụ.
Nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển thị trường an toàn, minh bạch, bền vững, trong năm 2023, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các Bộ, ngành triển khai các giải pháp chính: Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý: rà soát tại Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp để sửa đổi các quy định về điều kiện phát hành TPDN, điều kiện về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Trước mắt, do tình hình thị trường tài chính, tiền tệ có nhiều khó khăn, thanh khoản sụt giảm, niềm tin của thị trường suy giảm, Bộ Tài chính đang phối hợp với các Bộ, ngành đánh giá cụ thể tình hình, để xem xét trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 65/2022/NĐ-CP nhằm tháo gỡ các khó khăn phát sinh hiện nay.
Tăng cường truyền thông, ổn định tâm lý, niềm tin của nhà đầu tư: Bộ Tài chính tiếp tục tập trung truyền thông với thông điệp rõ về định hướng phát triển của Nhà nước đối với thị trường TPDN; đồng thời, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông định hướng vấn đề truyền thông, ngăn chặn việc đưa tin không chính thống, chưa kiểm soát; kịp thời phát hiện và có giải pháp xử lý nghiêm các trường hợp đưa tin giả mạo, thất thiệt,... gây ảnh hưởng đến thị trường.
Tập trung công tác quản lý giám sát, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật: tiếp tục rà soát, đánh giá hoạt động của các công ty chứng khoán, tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp phát hành và công ty chứng khoán cung cấp dịch vụ; phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trong quản lý, giám sát việc các tổ chức tín dụng phát hành, đầu tư và cung cấp dịch vụ về TPDN riêng lẻ.
Bên cạnh đó, rà soát, cải cách quy trình cấp phép chào bán chứng khoán ra công chúng, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp đủ điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng; chỉ đạo các Sở giao dịch chứng khoán chuẩn bị nền tảng giao dịch TPDN riêng lẻ nhằm phát triển thị trường thứ cấp minh bạch.
Về đảm bảo thanh khoản thị trường tài chính, cung ứng vốn cho nền kinh tế, Bộ Tài chính đã kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước tập trung triển khai các biện pháp điều hành đảm bảo thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại, điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế trong bối cảnh thị trường TPDN đang gặp khó khăn.
Bộ Tài chính khẳng định quan điểm nhất quán, xuyên suốt là phát triển thị trường TPDN công khai, minh bạch, hiệu quả, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư và các chủ thể tham gia thị trường. Theo đó, bên cạnh các nhiệm vụ thuộc phạm quản lý, Bộ Tài chính sẽ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan để nâng cao hiệu quả công tác giám sát liên thông, kịp thời nhận diện, cảnh báo rủi ro và đảm bảo thị trường hoạt động lành mạnh, an toàn, bền vững.
Để tạo bước đột phá trong năm 2023, Bộ Tài chính sẽ giải pháp gì để hoàn thành tốt các mục tiêu về nhiệm vụ tài chính ngân sách, góp phần vào tăng trưởng kinh tế đất nước, thưa Bộ trưởng?
-Ngành tài chính đã xác định thu ngân sách sẽ phải đối diện với những áp lực lớn và đã sẵn sàng các kịch bản ứng phó trong triển khai thực hiện nhiệm vụ thu cho cả năm 2023 và giai đoạn 2023-2025 để hoàn thành mục tiêu thu ngân sách theo Nghị quyết của Quốc hội. Để đạt được kết quả này thì trong năm 2023, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục triển khai quyết liệt một số nhiệm vụ trọng tâm.
Cụ thể, bám sát chủ trương, định hướng của Đảng, các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về chính sách tài khóa nhằm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, chủ động nghiên cứu, tham mưu Chính phủ báo cáo Quốc hội có những giải pháp mới phù hợp tình hình thực tiễn.
Nghiên cứu, rà soát và sửa đổi, bổ sung các Luật về thuế theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030; tiếp tục thực hiện một số giải pháp để hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân có thêm nguồn lực ứng phó với những khó khăn, thách thức trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, thực hiện các giải pháp về quản lý thu NSNN và cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thu NSNN, đảm bảo thực hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra..
Đồng thời, chủ động rà soát lại nhu cầu chi và cơ cấu lại chi NSNN; sắp xếp các khoản chi theo thứ tự ưu tiên, thực hiện quản lý chi NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN, nợ công, cơ cấu nợ công trong giới hạn; sử dụng hiệu quả ngân quỹ nhà nước; tăng cường quản lý hoạt động của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách.
Mặt khác, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý giá; điều hành linh hoạt giá cả trên cơ sở dự báo cung - cầu thị trường. Tăng cường kiểm tra, giám sát giá cả, thị trường (nhất là đối với các nhóm hàng năng lượng, vật liệu xây dựng, sắt thép...).
Đặc biệt, Bộ sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để ổn định và phát triển thị trường vốn công khai, minh bạch, an toàn, bền vững nhằm khơi thông nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu tư và phát triển, tập trung hoàn thiện khung pháp lý và thể chế; đẩy mạnh công tác giám sát, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; tăng cường công tác truyền thông, tạo dựng niềm tin của nhà đầu tư.
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
Thanh Hoa (thực hiện)