Tại Tọa đàm Đối thoại chính sách về Sửa đổi Luật Đầu tư công: Bàn luận từ những góc nhìn đa chiều, được tổ chức ngày 8/5, nhiều chuyên gia đã chỉ ra những bất cập, tồn đọng trong việc thực hiện đầu tư công thời gian qua.
Số liệu của Bộ KH&ĐT mới đây cho thấy, có rất nhiều cơ quan giải ngân chưa đạt 50% kế hoạch năm. Tình trạng chậm giải ngân vốn đầu tư công cũng khiến ngân sách nhà nước có tiền nhưng không tiêu được, trong khi nhiều công trình lại phải chờ vốn. Điều này làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế đất nước.
Nhiều điểm nóng
Các chuyên gia cho rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc chậm trễ này, trong đó tồn tại những bất cập trong quy định của Luật Đầu tư công.
Theo Ts. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Luật Đầu tư công hiện nay chưa giải quyết được vấn đề nâng cao hiệu quả đầu tư công và đầu tư nhà nước nếu chỉ chuyển từ Chính phủ quyết sang Quốc hội quyết hay ngược lại.
Ngoài ra, khó khăn cũng tồn tại trong khâu thẩm định và phê duyệt nguồn vốn đầu tư cho dự án.
Cụ thể, theo Luật Đầu tư công, dự án phải có quyết định chủ trương đầu tư mới được bố trí vốn kế hoạch đầu tư trung hạn, trong khi thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn lại là điều kiện bắt buộc để ra quyết định chủ trương đầu tư.
Tại Tọa đàm, một chuyên gia nêu dẫn chứng về tuyến đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông với số vốn vay từ hơn 500 triệu USD đến hơn 800 triệu USD, dự kiến hoàn thành vào năm 2013, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành. Cơ quan quản lý cho rằng còn 1% nữa là đi vào hoạt động, nhưng không biết 1% này đến bao giờ mới xong?
Bên cạnh đó, vị chuyên gia này lo ngại không chỉ chậm tiến độ, nhiều dự án còn sử dụng vốn đầu tư công không hiệu quả. Số lượng dự án vi phạm trong năm không thay đổi đáng kể, thậm chí tăng lên. Hệ thống thông tin theo dõi, giám sát các dự án đầu tư công còn nhiều hạn chế. Điển hình như Hà Nội có dự án lát lại vỉa hè có tuổi thọ lên đến vài trăm năm, nhưng ngay sau mấy tháng đã nát vụn…
Quản lý đầu tư công phải phù hợp với cơ chế thị trường |
“Cởi” nút thắt
PGs.Ts. Trần Kim Chung, Phó Viện trưởng CIEM, cũng cho rằng một trong những bất cập lớn hiện nay của Luật Đầu tư công là Nghị định 71 đưa ra quy định rõ ràng về việc “ai ra quyết định, người đó chịu trách nhiệm” nhưng thực tế tình trạng “tôi quyết, anh chịu trách nhiệm” lại đang diễn ra phổ biến.
Sửa Luật Đầu tư công theo hướng nào là vấn đề được các đại biểu đưa ra bàn luận tại Tọa đàm.
Giới chuyên gia khuyến nghị, Luật Đầu tư công cần áp dụng mạnh mẽ hơn các nguyên tắc công khai, minh bạch, chịu trách nhiệm cá nhân, lựa chọn và đánh giá dự án đầu tư công dựa trên các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội và môi trường của dự án.
Chính sách đầu tư công cũng cần phải khắc phục những vướng mắc trong quá trình triển khai Luật Đầu tư công, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tháo gỡ những khó khăn cho các bộ, ngành và địa phương…
Theo ông Trần Quốc Phương, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân, Bộ KH&ĐT, hiện tại, dự thảo Luật Đầu tư công đang sửa đổi nhằm khắc phục những hạn chế của hệ thống hành lang pháp lý. Trong đó có vấn đề cần xác định cơ quan nào duyệt kế hoạch đầu tư trung hạn và cơ quan nào duyệt danh mục dự án. Gỡ được nút thắt này sẽ giải quyết được tình trạng tồn đọng của hơn 10.000 dự án.
Theo Gs. Nguyễn Kế Tuấn, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nên xác định và xử lý nghiêm trách nhiệm tổ chức, cá nhân trong từng khâu của đầu tư công. Ví dụ khâu thẩm định, tổ chức thực hiện, chọn nhà thầu có lỗi thì phải chịu trách nhiệm chứ không được đổ cho “cả làng”, đổ cho khách quan.
Gợi mở hướng nhằm hoàn thiện Luật Đầu tư công dưới góc độ hiệu quả đầu tư công, PGs.Ts Phạm Văn Hùng, Đại học Kinh tế Quốc dân, cho rằng cần xây dựng và chuẩn hóa các chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội đầu tư công gồm dự án đầu tư, chương trình đầu tư và kế hoạch đầu tư công.
“Nếu có thể cần phải luật hóa một số tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội hoạt động đầu tư công, bởi trên 80% vốn đầu tư từ ngân sách là do địa phương quản lý, nên trong Luật Đầu tư công cần tạo ra cơ chế tự chủ cho địa phương. Có thể nghiên cứu cơ chế khoán cho địa phương để họ chủ động trong mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong giới hạn ngân sách, địa phương chủ động hơn nhưng cũng sẽ thận trọng hơn, còn Trung ương chỉ quản lý hiệu quả đầu tư theo các mục tiêu đã xác định”, ông Hùng đề xuất.
Thanh Hoa