Việt Nam hiện có hơn 60 triệu dân sống ở vùng nông thôn, chiếm khoảng 76,5% số dân của cả nước. Trung bình mỗi ngày, khu vực nông thôn phát sinh khoảng hơn 31 nghìn tấn chất thải rắn sinh hoạt, chất thải sinh hoạt chủ yếu là chất vô cơ và hữu cơ trong đó chất hữu cơ chiếm phần lớn chủ yếu là từ thực phẩm thải. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều vùng nông thôn đang ở mức báo động.
Hiện trạng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết
Ông Nguyễn Văn Tài, Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường đánh giá, hiện nay, việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở khu vực nông thôn ở các địa phương được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau như: Chôn lấp, làm phân vi sinh, thiêu hủy...
Chất thải sinh hoạt không qua xử lý khiến nguồn nước, không khí bị ô nhiễm nghiệm trọng, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. |
Đây là những phương pháp đang được áp dụng phổ biến tại Việt Nam. Trong số hơn 900 bãi chôn lấp hiện nay chỉ có khoảng 20% là bãi chôn lấp hợp vệ sinh, còn lại là các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh (bãi chôn lấp hở) hoặc các bãi tập kết chất thải cấp xã.
Phần lớn bãi chôn lấp tiếp nhận chất thải rắn sinh hoạt chưa được phân loại tại nguồn, có thành phần hữu cơ cao nên tính ổn định thấp, chiếm dụng diện tích đất lớn, gây ô nhiễm môi trường do mùi hôi, khí thải, nước rỉ rác, nhiều trường hợp gây ra sự cố phải xử lý phức tạp và tốn kém.
Hiện nay, một số địa phương đã đầu tư cho mỗi xã một lò đốt cỡ nhỏ để xử lý chất thải rắn sinh hoạt, tuy nhiên nhiều lò đốt trong số này không đáp ứng yêu cầu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, một số lò đốt bị hỏng, xuống cấp sau một thời gian vận hành.
Một số lò đốt đáp ứng yêu cầu của Bộ Tài nguyên và Môi trường nhưng khi áp dụng tại các địa phương gặp phải một số vấn đề như chất thải rắn sinh hoạt có nhiệt trị thấp, độ ẩm cao, trình độ vận hành của các công nhân còn yếu kém, không tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật hoặc không vận hành hệ thống xử lý khí thải, dẫn đến không kiểm soát được chất thải thứ cấp phát sinh (đặc biệt là đối với dioxin/furan), do đó không đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Trong bối cảnh đó, tại nhiều vùng nông thôn, các mô hình HTX môi trường đang ngày một phát triển, "chung tay" cùng địa phương trong việc việc xử lý rác thải sinh hoạt và giảm thiểu vấn đề ô nhiễm môi trường ở khu vực này.
Đơn cử, tại Vĩnh Phúc, HTX môi trường thị trấn Hương Canh được thành lập chủ yếu là thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải trong các khu dân cư, cụm công nghiệp trên địa bàn huyện Bình Xuyên. Mỗi ngày HTX xử lý bình quân khoảng 30 tấn rác thải của 18 nghìn nhân khẩu và rác thải sinh hoạt của khu công nghiệp trên địa bàn huyện Bình Xuyên.
Từ khi thành lập đến nay, HTX môi trường thị trấn Hương Canh cùng với 64 HTX dịch vụ môi trường trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc với sự tự chủ, nỗ lực cố gắng vươn lên, các HTX môi trường đã và đang có vai trò quan trọng trong việc xử lý rác thải trong điều kiện tỉnh, huyện chưa xây dựng được lò đốt rác tập trung, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường các khu công nghiệp, khu đô thị và môi trường nông thôn.
Ông Hà Trọng Tấn – Chủ tịch HĐQT HTX khẳng định: Ngay từ khi thành lập, HĐQT HTX đã xác định rõ nhiệm vụ để mở rộng địa bàn vệ sinh môi trường và kinh doanh dịch vụ tạo việc làm, thu nhập ổn định cho người lao động. Đặc biệt, với hình thức hoạt động mà HTX đang triển khai, Nhà nước không phải đầu tư vốn, phương tiện, trang thiết bị.
Ứng dụng công nghệ trong xử lý rác thải
Một trường hợp khác là HTX Thành Công( Hà Nội), HTX đã mạnh dạn đầu tư hàng chục tỉ đồng để cải tạo, nâng cấp hệ thống lò đốt rác và xử lý khí thải theo hướng hiện đại hóa, triển khai tại Nhà máy xử lý chất thải rắn Xuân Sơn (Nhà máy Xuân Sơn). Nhà máy có mô hình xử lý liên hợp, gồm: rác sinh hoạt, rác công nghiệp thông thường. Quy trình xử lý được áp dụng công nghệ tiên tiến nhất hiện nay.
Sơ đồ quy hoạch Nhà máy xử lý rác thải sinh hoạt của T-Tech |
Công nghệ đốt rác tại Nhà máy Xuân Sơn hiện nay là công nghệ đốt thiêu hủy - ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại dựa trên công nghệ của Thụy Sỹ. Công nghệ này đã được Hội đồng Khoa học Công nghệ Hà Nội thẩm định.
Theo đó, hệ thống tổ hợp lò đốt của nhà máy hiện nay gồm 4 lò, tổng công suất vận hành tối đa 300 tấn/ngày/đêm. Hiện tại, 3 hệ thống lò đốt gồm số 1, số 2, số 3 hoạt động ổn định và đạt kết quả tốt. Công suất của 3 hệ thống đã hoàn thiện đang tiếp nhận xử lý khoảng gần 200 tấn/ngày/đêm.
Ông Phạm Thiện Lộc - Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Thành Công, chủ đầu tư Nhà máy Xuân Sơn cho biết, với phương châm coi rác thải là nguồn tài nguyên, trong thời gian tới, HTX Thành Công sẽ tiến hành đầu tư xây dựng hệ thống phát điện sạch từ việc tận dụng nhiệt lượng tỏa ra từ quá trình đốt rác, tro xỉ sau đốt sẽ được dùng làm nguyên liệu ép gạch không nung. Từ khi đi vào hoạt động đến nay, Nhà máy Xuân Sơn đã góp phần quan trọng vào công tác xử lý chất thải, rác thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp thông thường từ các hoạt động ở một số địa bàn phía Tây của Thủ đô.
Ngoài nhà máy xử lý rác Xuân Sơn, một số tỉnh thành phố cũng đã đầu tư công nghệ xử lý rác hiện đại như Nhà máy xử lý rác T-Tech tại Nghệ An, nhà máy xử lý rác tại Nghi Sơn (Thanh Hóa) các nhà máy này hoạt động theo chu trình công nghệ khép kín và tối ưu, từ khâu: Sấy rác - Đốt rác - Đốt tro - Đốt khí - Tản nhiệt - Bẫy bụi và Xử lý khí độc, giúp cho các lò đốt có thể đốt kiệt rác mà không tạo ra ô nhiễm thứ cấp, khí thải đầu ra luôn đạt theo Quy chuẩn của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
HTX môi trường Hương Canh và HTX Thành Công( Hà Nội) chỉ là hai trong hàng trăm HTX dịch vụ môi trường đang hoạt động hiệu quả ở nhiều tỉnh, thành hiện nay. Mô hình này đã và đang cho thấy hiệu quả thiết thực mà nó mang lại.
Theo khảo sát, cả nước có 852 HTX dịch vụ BVMT bao gồm 650 HTX chuyên về môi trường (cung cấp nước sạch, thu gom và xử lý rác thải) và 202 HTX tham gia hoạt động BVMT. Nhiều mô hình HTX hoạt động rất hiệu quả, tên tuổi đã được khẳng định như: HTX Vận tải và dịch vụ môi trường (Tuyên Quang), HTX vệ sinh môi trường An Châu (Bắc Giang), HTX Nước sạch Bình Tây (Tiền Giang), HTX Chí Linh (Hải Dương)... Những HTX này đã góp phần quan trọng vào giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở địa phương.
Rõ ràng, vai trò của các HTX trong việc giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường ở khu vực nông thôn là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, do còn nhiều khó khăn cả về tài chính, năng lực, công nghệ xử lý... nên vẫn còn nhiều bất cập, đòi hỏi các cơ quan chức năng, địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa sự quan tâm, hỗ trợ cho các HTX môi trường phát triển. Đồng thời, ngay chính bản thân các HTX cần tăng cường nâng cao chất lượng, dịch vụ... và năng lực để phục vụ cho công tác này ngày một tốt hơn, góp phần quan trọng vào xanh hóa môi trường sống ở khu vực nông thôn.
Đoàn Huyền