Do lưu lượng nước về các hồ thủy điện khá hơn so với kế hoạch dự kiến nên trong 9 tháng đầu năm, các nhà máy thủy điện được khai thác cao hơn, trong khi nhiệt điện than và turbin khí khai thác thấp hơn kế hoạch.
Tăng hơn 10% sản lượng
Sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống tháng 9/2018 đạt 18,4 tỷ kWh (trung bình 614,8 triệu kWh/ ngày). Lũy kế 9 tháng đầu năm đạt 163,5 tỷ kWh, tăng 10,54% so với cùng kỳ năm 2017. Sản lượng điện ngày cao nhất đạt 711,3 triệu kWh và công suất lớn nhất đạt 34.154 MW (ngày 22/6).
Điện năng vẫn truyền tải chủ yếu theo hướng từ miền Bắc vào miền Trung và miền Nam với sản lượng truyền tải ước đạt 137,6 tỷ kWh (tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2017). Sản lượng điện thương phẩm toàn EVN lũy kế 9 tháng ước đạt 143 tỷ kWh, tăng 10,13% so cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng điện thương phẩm nội địa tăng 10,21%.
Các chỉ số độ tin cậy cung cấp điện của các đơn vị tiếp tục cải thiện so với cùng kỳ năm trước. Tính chung toàn Tập đoàn, trong 9 tháng đầu năm, tổng thời gian mất điện khách hàng bình quân (SAIDI) là 543,28 phút (giảm 23,62% so với cùng kỳ 2017).
Tần suất mất điện thoáng qua bình quân (MAIFI) là 1,21 lần/ khách hàng, tần suất mất điện kéo dài bình quân (SAIFI) là 4,36 lần/khách hàng. Tổn thất điện năng toàn Tập đoàn 9 tháng là 7,17%, thấp hơn 0,03% so với kế hoạch năm 2018 (7,2%).
Trong công tác kinh doanh và dịch vụ khách hàng, các Tổng công ty Điện lực đã cung cấp dịch vụ điện qua Trung tâm hành chính công hoặc trên Cổng thông tin dịch vụ công trực tuyến tại 57/63 tỉnh/thành phố.
Các Tổng công ty Điện lực đã thực hiện tốt công tác dịch vụ khách hàng, trong đó thời gian giải quyết các thủ tục cấp điện lưới trung áp của ngành điện bình quân trong 8 tháng năm 2018 là 4,39 ngày, thấp hơn 2,61 ngày so với quy định.
Để đáp ứng nhu cầu điện trong những năm tới, 9 tháng đầu năm 2018, EVN đã có nhiều nỗ lực trong việc điều hành, chỉ đạo thi công các công trình theo kế hoạch đề ra, bảo đảm công tác bố trí vốn, giải ngân vốn đầu tư kịp thời cho các dự án với giá trị khối lượng thực hiện ước đạt 76.239 tỷ đồng và giá trị giải ngân đạt 65.015 tỷ đồng.
EVN đã bảo đảm cung ứng điện an toàn, ổn định |
Tăng công suất nguồn điện cả nước
Về nguồn điện, tổng công suất nguồn điện đưa vào phát điện trên toàn quốc trong 9 tháng là 2.500MW. Riêng EVN, trong 9 tháng đầu năm, đã đưa vào vận hành thương mại 2 tổ máy (2x600MW) dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 4 và 2 tổ máy (2x300MW) dự án Nhiệt điện Thái Bình.
Như vậy, tính đến cuối tháng 9/2018, tổng công suất lắp đặt nguồn điện toàn hệ thống khoảng 47.900MW, trong đó nguồn điện của EVN là 28.100MW (chiếm 58,7%).
Ngoài ra cho đến nay, EVN đã ký được 35 hợp đồng mua bán điện (PPA) với các nhà đầu tư điện mặt trời bên ngoài EVN với tổng công suất là 2.271 MW, trong đó dự án điện mặt trời Phong Điền (tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế) có công suất 35 MW là dự án điện mặt trời đầu tiên hòa lưới, sẽ chính thức vào vận hành trong tháng 10/2018.
Về lưới điện, 9 tháng đầu năm, EVN đã hoàn thành đóng điện 121 công trình lưới điện 110 - 500 kV (gồm 4 công trình 500 kV, 20 công trình 220 kV, 97 công trình 110 kV), đã khởi công xây dựng 102 công trình lưới điện 110 - 500 kV (gồm: 5 công trình 500 kV, 11 công trình 220 kV, 86 công trình 110 kV).
Trong quý IV/2018, EVN dự kiến sản lượng điện sản xuất và mua đạt 53,7 tỷ kWh. Trong đó, sản lượng điện thương phẩm (kể cả bán cho Lào và Campuchia) đạt 49,7 tỷ kWh; vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện và thị trường điện, bám sát tình hình phụ tải, diễn biến thời tiết - thủy văn và sẵn sàng ứng phó với các tình huống bất lợi; huy động tối đa các nhà máy điện trong hệ thống; bảo đảm cung cấp điện phục vụ cho các sự kiện chính trị, xã hội quan trọng, điển hình là kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV.
Hồng Quân