Năm 2019, tăng trưởng doanh thu của Zalo ở mức 20%, lợi nhuận trước thuế tăng 1,5 lần lên mức 641 tỷ đồng (Ảnh minh hoạ: Interner) |
Tại Tọa đàm Chính sách “Xây dựng các nền tảng số riêng của Việt Nam – Ý tưởng và tính khả thi”, được Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP) tổ chức sáng 21/4, các chuyên gia đánh giá, đại dịch Covid-19 là thời điểm để các chủ thể của nền kinh tế nhận ra vai trò của kinh tế số và sự cần thiết của các nền tảng. Đây có thể là động lực để tạo nên bước ngoặt lớn cho Việt Nam hoặc sẽ là niềm nuối tiếc lớn nếu chúng ta bỏ lỡ.
Xây dựng nền tảng số "Made in Việt Nam"
Một số nghiên cứu cho rằng tổ chức kinh doanh trên các nền tảng số hoặc khởi nghiệp trên các mô hình số sẽ là giải pháp cứu nguy cho nhiều doanh nghiệp, cá nhân trong cuộc chiến chưa biết đến hồi kết với đại dịch Covid-19. Đồng thời, cấu trúc nền kinh tế thế giới sẽ hoàn toàn thay đổi sau đại dịch.
Tại Việt Nam, Báo cáo về nền kinh tế số Đông Nam Á của Google, Tamesek và Bain & Company năm 2019 cho thấy kinh tế số của Việt Nam và Indonesia tăng trưởng dẫn đầu khu vực Đông Nam Á (khoảng 38%) và dự kiến có thể đạt mục tiêu 43 tỷ USD vào năm 2025, trong đó kinh tế nền tảng chiếm vai trò quan trong.
Các chuyên gia VERP nhận định, đại dịch Covid-19 là thời điểm để các chủ thể của nền kinh tế nhận ra vai trò của kinh tế số và sự cần thiết của các nền tảng. Đây có thể là động lực để tạo nên bước ngoặt lớn cho Việt Nam hoặc sẽ là niềm nuối tiếc lớn nếu chúng ta bỏ lỡ.
Một số nền tảng của người Việt đang manh nha hình thành, nhưng sự cạnh tranh là vô cùng khốc liệt vì nhiều nền tảng nước ngoài đã có chi phí cận biên gần như bằng không và đang dần xác lập hiệu ứng mạng độc quyền.
Chẳng hạn, Facebook – nền tảng chia sẻ thông tin, kết nối 2,45 tỷ người tham gia và 1,62 triệu người hoạt động mỗi ngày trên Facebook đã trở thành rào cản lớn để ngăn các nền tảng mới tham gia vào thị trường. Hoặc như Airbnb với 150 triệu người dùng trên 65.000 thành phố và khoảng 1,9 triệu cơ sở lưu trú hoạt động, sở hữu khối lượng thông tin khổng lồ mà ít có đối thủ nào trên thế giới có thể cạnh tranh được.
Trong khi đó, tại Việt Nam, nền tảng chia sẻ thông tin mới chỉ có Lotus, Gapo. Còn nền tảng du lịch có Asia Platform Trave, Tubudd. Tuy nhiên, dù xuất hiện đình đám nhưng nhanh chóng biến mất trên thị trường.
Vậy, đâu là chỗ đứng cho doanh nghiệp Việt? Có hay không một chỗ đứng cho người Việt trong thế giới số?
Thực tế, đã có một số nền tảng số của Việt Nam trở thành "đối thủ" đáng gờm với các "ông lớn" trên thế giới như trường hợp của Momo – dịch vụ ví điện tử, đã cho thấy sự phát triển nhanh và mạnh. Chỉ riêng trong năm 2018, nền tảng này tiếp cận được hơn 10 triệu người dùng và thành công gọi vốn trị giá trị hơn 100 triệu USD từ Warburg Pincus, đồng thời lọt top 100 công ty công nghệ tài chính lớn nhất toàn cầu.
Theo các chuyên gia, tính khác biệt chính là yếu tố then chốt để doanh nghiệp xây dựng lợi thế cạnh tranh. Đơn cử như Instagram, một nền tảng kết nối xã hội tương tự như Facebook, song cá biệt hóa mình bằng hình thức chia sẻ thông tin chủ yếu bằng hình ảnh. Hoặc Tiktok thu hút tương tác qua các video mà người sử dụng đăng lên.
Ngoài ra, tính tương thích với địa phương hoạt động cũng khiến một số nền tảng chiếm được lợi thế cạnh tranh, ví dụ như Hocmai.vn – đơn vị cung cấp các khóa học trực tuyến mà Coursera đang làm rất tốt trên thế giới, song vẫn tồn tại nhờ tối ưu hóa cho học sinh Việt Nam ôn luyện thi tại các cấp học. Hay Momo chiếm ưu thế hơn so với các nền tảng nước ngoài như Paypal vì hệ thống ngôn ngữ, giao diện gần gũi với người Việt, khả năng kết nối với nhiều ngân hàng nội địa thông qua hệ thống thẻ tín dụng mà phần đông người Việt sở hữu.
Cần có sự khác biệt và tính nội địa hoá
Các chuyên gia VERP đánh giá, sẽ không có một mô hình nào để xây dựng nên nền tảng số tại Việt Nam, nhưng từ bài học thất bại và thành công cũng như quan sát các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng các nền tảng số cho thấy: "Các nền tảng muốn vươn ra ngoài nước, trước hết nên đảm bảo sự sinh tồn tại thị trường thân quen nhất đó là thị trường nội địa, và để cạnh tranh với những nền tảng đã có sẵn với đông người sử dụng, không còn cách nào khác ngoài ra tăng tính khác biệt và tính nội địa hóa".
Tuy nhiên, để các nền tảng mang thương hiệu "Made in Việt Nam" đủ sức cạnh tranh được với các "ông lớn" thế giới, các nhà hoạch định chính sách cần khuyến khích doanh nghiệp Việt tự xây mới nền tảng hay tận dụng các nền tảng đã có sẵn của nước ngoài?
Các chuyên gia cũng đặt ra nguy cơ nếu quyết tâm xây các nền tảng số của người Việt, cho người Việt như Lotus, Gapo và ngăn chặn sự phát triển của Facebook, Twitter... tại thị trường nội địa như cách Trung Quốc đang làm thì được và mất gì?
"Nguồn vốn lớn đổ vào doanh nghiệp có nhiều khả năng thất bại do không vượt qua được hiệu ứng mạng độc quyền (như cách Lotus đã biến mất), xáo trộn các hoạt động thương mại, sản xuất sẵn có đã và đang hoạt động trên các nền tảng nước ngoài; cưỡng chế sự tự do lựa chọn của người sử dụng nền tảng", chuyên gia VERP nhận định.
Ở chiều ngược lại, việc chấp nhận xây dựng nền tảng Việt hoàn toàn như Wechat, Tiktok của Trung Quốc tạo động lực cho sự sáng tạo, làm chủ công nghệ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là so với Trung Quốc, dân số và số lượng người sử dụng tiếng Việt tương đối hạn chế nên khó lòng có được thị trường nội địa rộng lớn như vậy để nuôi dưỡng các nền tảng nội địa. Ngoài ra, sự tham gia tích cực vào các hiệp định thương mại với tư cách là nước đang phát triển cũng khó lòng cho phép Việt Nam “cưỡng chế” các nền tảng nước ngoài dừng hoạt động tại Việt Nam.
Thanh Hoa