Trên thực tế, lợi thế cạnh tranh của ngành thủy sản đã được ông Lê Văn Quang, Tổng giám đốc công ty cổ phần Tập đoàn Minh Phú đề cập rất nhiều lần khi phân tích cụ thể vào trường hợp của ngành tôm.
Phát triển nóng, đi theo đường cũ
Theo đó, người được mệnh danh là "vua tôm" của Việt Nam - ông Lê Văn Quang thẳng thắn cho rằng, ngành tôm đã phát triển nóng trong 20 năm và để lại hậu quả tương đối nặng nề với môi trường nước, môi trường đất. Trong khi đó, ngành tôm phát triển tự phát, không theo quy hoạch. Điều này làm giá thành sản xuất tôm Việt Nam cao, kém cạnh tranh với các đối thủ khác.
Ngành tôm có nguy cơ mất lợi thế nếu chậm thay đổi. |
Ông Quang dẫn chứng như Ecuador - diện tích nuôi tôm là 250 ngàn ha, Việt Nam có diện tích thả nuôi tới 740 ngàn ha. Năm 2021, Ecuador đạt sản lượng 490 ngàn tấn, trong khi Việt Nam đạt 970 ngàn tấn. Không chỉ đạt sản lượng trên một đơn vị diện tích khá cao, mà giá thành tôm của Ecuador chỉ bằng 1/2-1/3 so với Việt Nam. Nguyên nhân là do phát triển giống tôm thích nghi cao với sự thay đổi của môi trường tự nhiên, kháng bệnh nên tỷ lệ sống tới 90%.
Hay với Ấn độ có sản lượng đạt 700 ngàn tấn, giá thành nuôi tôm thấp hơn 20-30% so với Việt Nam, môi trường thả nuôi ít ô nhiễm, tỷ lệ sống cao.
Từ đó, "vua tôm" Minh Phú cho rằng, lợi thế cạnh tranh duy nhất của Việt Nam so với các đối thủ là công nghệ chế biến tốt. Song lợi thế này có thể không còn trong 3-5 năm tới.
Hiện nay, Ecuador không bán nguyên tôm đông lạnh sang Trung Quốc nữa mà đã chuyển sang làm hàng chế biến, giá trị gia tăng cao hơn. Ấn Độ cũng vậy. Rõ ràng trong 5-10 năm nữa, ngành tôm Việt Nam không thể cạnh tranh thì sẽ đi xuống.
Chưa kể, tôm nuôi vẫn còn 20-30% bị nhiễm kháng sinh, doanh nghiệp phải duy trì kiểm soát 100% khi xuất khẩu, điều này đội chi phí khoảng 6-10 nghìn đồng/kg tôm nguyên liệu. Nếu không kiểm soát được thì không xuất khẩu được.
Trước thực tế trên, Tổng Giám đốc Minh Phú cho rằng ngành tôm Việt Nam cần có cách thức mới để tồn tại, phát triển bằng cách quy hoạch tôm theo hướng thuận thiên, bền vững, dựa trên nền tảng số, đảm bảo lợi nhuận tốt, bền vững cho mọi đối tác tham gia, người nuôi tôm làm giàu trên mảnh đất của mình.
Trong đó, cần quy hoạch đầu tư phát triển nguồn giống tôm nước lợ. Hiện giống tôm quyết định thành công nhưng Việt Nam chưa chủ động số lượng, chất lượng tôm bố mẹ phụ thuộc khai thác tự nhiên và nhập khẩu...
Quy hoạch vùng nuôi tôm rừng, kết hợp nuôi thuỷ sản dưới tán rừng, gắn bảo vệ và phát triển rừng, tạo thuỷ sản chất lượng cao, tạo việc làm, nâng cao thu nhập người dân...
Liên quan tới câu chuyện trên, ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), cho rằng giống là vấn đề chủ đạo tác động nhiều đến giá thành, nhất là đối với các mặt hàng chủ lực như tôm và cá tra. “Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta đang cạnh tranh với Ecuador và Ấn Độ về tôm, thì chúng tôi nhận thấy rằng giá thành mới là yếu tố quyết định đến sức xuất khẩu kéo dài 3- 5 năm hay 10 năm nữa...”, ông Nam nhấn mạnh.
Ngoài tôm, cá tra... tìm thêm sản phẩm thế mạnh mới
Chúng tôi nhận diện loài rong biển, trong đó có rong nâu và rong đỏ. Thế giới có sức tiêu dùng rất lớn và chúng ta hiện nay đang có rất ít sự quan tâm, ngoài ra là sản phẩm cá rô phi. Do đó, trong năm 2022 cần chú ý đến những loài nuôi mới, có như vậy mới tạo ra sức lan tỏa mới, sức bật mới nhanh hơn là chúng ta đang cố gắng tăng trưởng 1-2% trên các loại cũ...
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP)
Chưa kể, trong năm 2021, đại dịch COVID-19, Ecuador có sự chuyển dịch rất lớn trong việc tăng thị phần ở thị trường châu Âu và châu Mỹ và giảm thị phần ở thị trường Trung Quốc. Việc này khiến họ sẽ tiếp tục điều chỉnh về giá thành và đạt các chứng nhận cao hơn. Hiện họ đã giảm tỷ lệ từ 53% xuống 45% thị phần tại thị trường Trung Quốc và tăng ở 2 thị trường EU và Mỹ lên với tổng lượng xuất khẩu ở 2 thị trường này là 46%.
11 tháng năm 2021, Ecuador đã xuất khẩu đạt kim ngạch 3,9 tỷ USD riêng cho tôm, và dự báo năm 2022 sẽ lên con số 4,2 tỷ USD. “Chúng tôi đang quan tâm đến 2 đối thủ Ecuador và Ấn Độ. Bởi rõ ràng, sự chuyển dịch thị trường trong những năm COVID-19 này sẽ tạo ra sự cạnh tranh mới", ông Nam đưa ra cảnh báo.
Phó Tổng Thư ký VASEP cũng thẳng thắn cho rằng 10 năm qua, ngành thủy sản vẫn xuất khẩu nhanh nhưng theo chiến lược cũ. Ngành cần tìm thêm các sản phẩm thế mạnh mới như tôm chân trắng, rong biển...
Trong 10 năm tới, cần nhận diện để có những loài mới gia nhập vào nhóm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực. “Chúng tôi nhận diện loài rong biển, trong đó có rong nâu và rong đỏ. Thế giới có sức tiêu dùng rất lớn và chúng ta hiện nay đang có rất ít sự quan tâm cho nó, ngoài ra là sản phẩm cá rô phi. Do đó, trong năm 2022 cần chú ý đến những loài nuôi mới, có như vậy mới tạo ra sức lan tỏa mới, sức bật mới nhanh hơn là chúng ta đang cố gắng tăng trưởng 1-2% trên các loại cũ", ông Nam nêu quan điểm.
Bàn tới việc tái cơ cấu ngành thủy sản, ông Trần Đình Luân, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Việt Nam, cho rằng những sản phẩm chủ lực của Việt Nam hiện nay đã có thị trường thì nên tiếp tục củng cố để có được thương hiệu tốt, truy xuất nguồn gốc tốt và có được tham vọng kéo dài chuỗi từ nuôi trồng, chế biến đến xuất khẩu. Bên cạnh đó, để tăng được giá trị xuất khẩu thì việc đa dạng hóa các đối tượng, trong đó có các đối tượng trong đề án nuôi biển là một trong những định hướng của ngành thủy sản trong thời gian tới.
Hiện nay, ngành thủy sản đã tập trung vào các đối tượng nuôi biển như cá ngừ, đã có được các mô hình nuôi trồng để đẩy mạnh xuất khẩu và thu về 100 triệu USD mỗi năm.
Bên cạnh đó, ông Luân nhận định sẽ mở rộng các đối tượng mới, trong bối cảnh thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm lệ thuộc vào nguyên liệu thức ăn. Do đó, những đối tượng nuôi mới như rong, tảo biển là một trong những đối tượng mà ngay từ nghiên cứu trong những năm vừa qua, Bộ NN&PTNT cũng đã có những định hướng để các cơ quan nghiên cứu phát triển loại rong đỏ có giá trị kinh tế.
Một mặt, chúng ta phục vụ cho việc làm thực phẩm nhưng tương lai những sản phẩm tảo biển và rong biển có thể chế biến thành các sản phẩm dược phẩm, mỹ phẩm để phát huy hơn nữa giá trị sản phẩm.
"Đây là những vấn đề lớn, chúng ta cần có thời gian và cần sự đồng hành của Nhà nước, doanh nghiệp, chính quyền địa phương để có thể phát huy thật tốt đến lợi thế của nuôi biển Việt Nam", ông Luân nhấn mạnh.
Lê Thúy