Trong khi những băn khoăn vẫn chưa dứt về thực trạng tăng trưởng đang nhờ phần lớn vào xuất khẩu, phụ thuộc quá nhiều vào các DN FDI, dòng vốn ngoại vẫn tiếp tục “tuôn chảy” vào Việt Nam.
Số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch & Đầu tư) cho thấy tính chung trong 10 tháng năm 2017, tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài là 28,24 tỷ USD, tăng đến 37,4% so với cùng kỳ năm 2016.
Ngoại ưu ái, nội thiệt thòi
Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) trong 10 tháng năm 2017 đạt 125,49 tỷ USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2016 và chiếm 72,2% kim ngạch xuất khẩu. Nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài trong 10 tháng năm 2017 đạt 107,85 tỷ USD, tăng 29,2% so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 62,5% kim ngạch nhập khẩu.
Nhìn vào những con số biết nói này đã phần nào cho thấy sự phụ thuộc rất lớn của nền kinh tế vào khu vực FDI, đến nỗi nhiều đại biểu Quốc hội cũng “nóng ruột”. Trong phiên thảo luận tại Quốc hội ngày 31/10 về kinh tế xã hội, đại biểu Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) lưu ý, “sau cơn địa chấn thu hút FDI lại là mối lo về mối liên hệ giữa FDI và tăng trưởng”.
Ông Nhân cũng tỏ ý về sự ưu ái trong chính sách đối với các DN FDI trong khi các DN nội địa chưa được quan tâm đúng mực, thiếu công bằng. Chẳng hạn như Viettel “vỡ mộng” khi bị Bộ Tài chính từ chối ưu đãi thuế như Samsung, gốm sứ Minh Long bị từ chối khoản hỗ trợ tài chính vì thiếu một vài thủ tục…
Đại biểu Nguyễn Thanh Hải (Tiền Giang) đặt vấn đề về việc phát triển công nghiệp hỗ trợ gắn với chuỗi sản xuất giá trị của các tập đoàn đa quốc gia. Rõ ràng chúng ta đã thu hút rất nhiều tập đoàn lớn nhưng cần phân tích kỹ xem thực chất các DN Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị này đạt đến đâu và đạt giá trị nội địa hóa là bao nhiêu.
Trong phiên thảo luận tổ trước đó ở Quốc hội, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (Tp.HCM) cũng đặt vấn đề, nếu các DN FDI rút, chúng ta còn lại gì. Ông Nghĩa đưa ra trường hợp DN ô tô nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, được ưu đãi rất lớn về đất đai, thuế… và các DN này đều hứa hẹn tỷ lệ nội địa hóa 30 – 40%, nhưng hiện chỉ vài phần trăm, thậm chí còn định chuyển dây chuyền đi nước khác.
Có thể thấy rõ, sự chi phối của khối FDI đi liền với đặc điểm đặc trưng của mô hình tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam lâu nay là tăng trưởng xuất khẩu dựa vào nhập khẩu.
![]() |
Các DN nội còn nhiều thiệt thòi so với sức phát triển của các DN FDI
Khó tranh thủ ngoại lực
Cơ cấu xuất khẩu phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu đầu vào trong khi ngành công nghiệp phụ trợ còn thiếu vắng và chưa phát triển. Việt Nam vẫn chủ yếu nhập khẩu tư liệu sản xuất, bao gồm: máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và nguyên nhiên vật liệu. Mà trường hợp của Samsung là một điển hình.
Tỷ lệ này luôn chiếm trên 90% tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu, kéo dài liên tục trong nhiều thập kỷ đến nay. Phần lớn các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam là hàng gia công, nên khi xuất khẩu tăng (với sự chiếm lĩnh của khối ngoại) cũng đồng nghĩa với nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu cùng tăng theo.
Trong khi đó, những rào cản lớn về môi trường kinh doanh và khả năng tiếp cận hạn chế đối với các nguồn lực sản xuất đã khiến khối DN trong nước chưa thực sự lớn mạnh so với khối ngoại. Mặt khác, quá ít DN tư nhân trong nước có quy mô vừa và quy mô lớn, đặc biệt trong ngành công nghiệp chế tạo.
Qua ba thập kỷ trở lại đây, theo giới chuyên gia, so với sự lớn mạnh của khối DN FDI, khối DN trong nước cũng tăng trưởng nhanh về số lượng, nhưng phần lớn DN thuộc khối tư nhân ở trong nước vẫn chỉ có quy mô nhỏ và siêu nhỏ (chiếm 94% tổng số DN khối tư nhân). Đáng quan ngại hơn, hiệu suất của khối tư nhân ở Việt Nam vẫn còn thấp.
Theo giới chuyên gia, các DN tư nhân trong nước chủ yếu có quy mô nhỏ và phi chính thức, cản trở việc tăng năng suất thông qua tính hiệu quả về kinh tế theo quy mô, chuyên môn hóa và đổi mới sáng tạo.
Một cuộc khảo sát cách đây vài năm cũng đã chỉ rõ những chênh lệch giữa khối nội và khối ngoại về khả năng lớn mạnh. Mức đầu tư vốn tăng lên của khối DN trong nước đã không đi kèm với sự gia tăng tương ứng về năng suất mà ngược lại, năng suất tài sản và năng suất lao động bị sụt giảm mạnh.
Hiệu suất sinh lời trên vốn kinh doanh (ROI) của các DN trong nước rất thấp và sụt giảm (trung bình 1,2% năm 2014 so với 1,9% năm 2010), chỉ bằng 1/5 của DN FDI. Hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) của DN nội bình quân chỉ đạt 4% so với 16,3% của DN FDI cách đây ba năm.
Nhìn chung, với năng lực của DN tư nhân trong nước còn nhiều hạn chế, rõ ràng nội lực của Việt Nam yếu nên không tranh thủ được ngoại lực một cách có hiệu quả.
Vì vậy, như chia sẻ của đại biểu Nguyễn Thanh Hải, chúng ta cần xem xét rõ việc kết nối giữa DN trong nước và DN có vốn đầu tư ở nước ngoài vào Việt Nam. Nếu chúng ta không kết nối được, sẽ không tận dụng được đầu tư, tiến bộ khoa học, công nghệ trong quản lý và chuyển giao công nghệ trong khối FDI, như vậy, những ưu đãi của chúng ta sẽ lãng phí và gây thiệt thòi cho các DN Việt Nam.
Thế Vinh