Nhân dịp năm mới, Xuân Nhâm Dần 2022, PGS.TS. Vũ Minh Khương, Giảng viên cao cấp Trường chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore đã chia sẻ với phóng viên VnBusiness về con đường phát triển của Việt Nam trong tương lai, nhìn nhận từ quan sát, kinh nghiệm và thực tế của ông.
PGS.TS. Vũ Minh Khương, Giảng viên cao cấp Trường chính sách công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore. |
Điều kiện để 'hóa rồng'
Kết thúc năm 2019, kinh tế Việt Nam đã đạt được kết quả rất ấn tượng khi Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,02%. Khi đó chúng ta đã tin rằng, con đường để trở thành quốc gia phát triển không bao giờ gần hơn đến vậy. Nhưng rồi đại dịch COVID-19 ập đến, kéo dài 2 năm qua gần như cuốn đi mọi thành quả mà Việt Nam đã cố gắng, đặc biệt là trong năm 2021.
Nhìn lại một năm 2021 đầy khó khăn với nền kinh tế Việt Nam và thế giới trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19. Theo ông, đâu là điểm tích cực trong bức tranh tổng thể phát triển kinh tế Việt Nam?
- Có thể nói trước khi dịch COVID-19 xảy ra, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam trong gần bốn thập kỷ qua đã làm nên những kỳ tích phát triển đáng tự hào. Nền kinh tế đã tích lũy được những tiền đề quan trọng để bước vào giai đoạn cất cánh và Việt Nam đứng trước triển vọng tươi sáng trở thành một quốc gia phát triển vào năm 2045 khi đất nước kỷ niệm 100 năm độc lập.
Thế nhưng, kỳ tích phát triển không đến từ nỗ lực thực hiện các quy trình được lập định từ trước mà là sự ứng đáp quả cảm và thông tuệ trước những thách thức, có thể là khôn lường và ngày càng khắc nghiệt.
Đại dịch COVID-19 là một thách thức khủng khiếp có tính thế kỷ mà cả nhân loại đang phải trải qua. Đại dịch đã gây cho Việt Nam những tổn thất to lớn và hậu quả tàn khốc.
Điều đặc biệt là trong cơn hiểm họa chưa từng có này, Việt Nam đã không chỉ đứng vững mà còn cho thấy những nỗ lực bước đầu nhằm đưa công cuộc phát triển tiếp tục đi lên mạnh mẽ trong các năm tới.
Theo dự báo mới nhất của EIU, cơ quan phân tích và dự báo có uy tín hàng đầu thế giới, Việt Nam dự kiến đạt mức tăng trưởng 6-7% trong các năm từ 2022 đến 2026, trong khi con số dự báo này chỉ dao động xung quanh mức 3% cho Thái Lan.
Dự báo trên quả rất tích cực cho triển vọng phục hồi để kinh tế Việt Nam lấy lại đà tăng trưởng. Song để vượt lên trở thành quốc gia phát triển như kỳ vọng sẽ không hề đơn giản, thưa ông?
- Đúng vậy! Dự báo đáng khích lệ mà tôi nói ở trên mới chỉ là tín hiệu tốt khởi đầu, nó đòi hỏi Việt Nam tiếp tục có những cố gắng cải cách liên tục gia tăng sức cạnh tranh và tăng trưởng đã có trước khi đại dịch COVID-19 xảy ra vào đầu năm 2020.
Hơn thế nữa, cho dù Việt Nam có đạt được mức tăng trưởng khích lệ này, mức tăng trưởng GDP bình quân mà Việt Nam đạt được cho giai đoạn 2020 - 2026 sẽ chỉ ở mức 5,6%, thấp hơn nhiều mức tối thiểu 7%/năm để Việt Nam có thể trở thành nước phát triển vào năm 2045.
Do vậy, Việt Nam rất cần những cải cách mạnh mẽ chưa từng có và những động lực có sức đột phá lớn để mạnh hơn sau thời kỳ hậu COVID-19.
"Đầu tàu" phải khỏe để kéo nền kinh tế
TP.HCM đầu tàu kinh tế của cả nước đã bị một cơn "bạo bệnh" do Covid-19 gây ra, thiệt hại vô cùng lớn cả người và của. Tuy nhiên, Thành phố đã vươn mình đứng dậy sau cơn bạo bệnh đó và khẳng định vai trò của mình đối với nền kinh tế đất nước.
Có thể nói, TP.HCM mang một trọng trách to lớn, là một trung tâm kinh tế - tài chính chủ đạo của nền kinh tế, với xấp xỉ 20% GDP và 10% dân số của cả nước, TP.HCM có sứ mệnh, tiềm lực và cơ hội to lớn để phất cao ngọn cờ cải cách với ý chí chiến lược hướng về tầm nhìn 2045 và những bước đi đột phá, góp phần đưa đất nước làm nên những bước tiến vượt bậc về tăng trưởng và phát triển bền vững trong những năm tới.
Rõ ràng, để "chữa lành vết thương", đưa TP.HCM phát triển đúng với tiềm năng và kỳ vọng trong thời kỳ hậu COVID-19 là rất cần thiết lúc này, thưa ông?
- Tôi cho rằng để lựa chọn các bước đi cải cách, đột phá. Lãnh đạo và chuyên gia của Thành phố có thể xem xét 3 bước làm, đó là nâng tầm quản trị với chiến lược phát triển bền vững trong thời đại số; hình thành và thúc đẩy kinh tế cộng hưởng HCMC+6; Xúc tiến các thử nghiệm để xây dựng Thủ Đức thành đô thị Việt Nam 2045.
Về nâng tầm quản trị với chiến lược nắm bắt cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển bền vững. Tôi cho rằng sự phát triển của một địa phương cũng như một quốc gia dựa trên ba động lực trụ cột - xúc cảm, khai sáng và kiến tạo.
Xúc cảm là sức mạnh tinh thần tiềm tàng. Nó có được từ lo lắng về sự sống còn, từ khát vọng vươn tới tương lai tươi sáng và từ ý thức trách nhiệm với thế hệ mai sau.
Khai sáng là nỗ lực truy tìm và tiếp thụ tinh hoa tri thức của nhân loại và thời đại. Và kiến tạo là khả năng không ngừng xây dựng và nâng cấp nền móng và thực lực phát triển, mạnh lên từ ứng đáp với thách thức. Từ đó, đi nhanh hơn từ nhạy bén nắm bắt cơ hội và xu thế thời đại, hiệu quả và hiệu lực hơn từ gắn kết cộng hưởng.
Nâng tầm quản trị với chiến lược phát triển bền vững trong thời đại số là bước đi đầu, có tính quyết định để Thành phố gia cường mạnh mẽ và sống động cả ba động lực phát triển trên trụ cột: Xúc cảm, Khai sáng và Kiến tạo.
Theo đề xuất này, tôi cho rằng TP.HCM nên bắt đầu bằng các nội dung được triển khai đồng bộ như tập hợp chuyên gia và lãnh đạo các doanh nghiệp, hiệp hội để cùng thành phố hoạch định chiến lược nắm bắt cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển bền vững; xây dựng mô hình quản trị hiện tại, trong đó cấu trúc tổ chức và vai trò trách nhiệm của cán bộ được phân định rõ...
Vậy còn bước làm hình thành và thúc đẩy kinh tế công hưởng HCMC+6, ông có thể nói rõ hơn cách làm này?
- Từ kinh nghiệm của nhiều nước tôi thấy rằng TP. HCM sẽ mạnh lên rất nhiều từ sức mạnh cộng hưởng với các tỉnh phụ cận.
Như kinh nghiệm của Trung Quốc, hình thành các khu kinh tế cộng hưởng (ví dụ: Vùng Vịnh Quảng Đông-Hồng Kông-Macao; Vùng Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc) đem lại ba lợi ích to lớn đặc biệt: thúc đẩy sự chuyên sâu và bổ trợ hiệu quả giữa các địa phương trong vùng; sự dịch chuyển nguồn lực theo vùng cộng hưởng sẽ tạo nên giá trị cao không chỉ về năng suất mà cả nền tảng chiến lược; giúp cả vùng và mỗi địa phương thuận lợi hơn trong định vị quốc tế, thu hút đầu tư, và thúc đẩy hoàn thiện hệ thống hạ tầng của một nền kinh tế hiện đại, dựa trên hiệu quả, sức sáng tạo, và chuyển đổi số.
Theo hướng này, TP. HCM có thể xin phép Trung ương để xúc tiến bàn với sáu tỉnh phụ cận -- Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa–Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang, và Tây Ninh – để hình thành nên một khu kinh tế cộng hưởng, tạm gọi là vùng HCMC+6.
Theo đó, vùng kinh tế này với tổng số 20 triệu dân và 23.000 km2 diện tích, tạo ra trên 35% GDP của cả nước (100 tỷ USD năm 2019). Nỗ lực đột phá của TP. HCM cùng các tỉnh trong vùng kinh tế cộng hưởng, do vậy sẽ tạo ra sức mạnh đặc biệt lớn cho cải cách phát triển của Việt Nam trong các năm tới.
PGS.TS. Vũ Minh Khương tin là Việt Nam sẽ có những bước đi khởi đầu quan trọng để đưa nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn cất cánh trong các thập kỷ tới. |
Kinh tế cần những cải cách mạnh mẽ để... 'cất cánh"
Bên cạnh việc dồn lực để đưa "đầu tàu" TP.HCM phát triển, thì việc thiết kế và triển khai gói kích thích là một thách thức lớn có tính chiến lược. Nói như PGS.TS. Vũ Minh Khương, các nước giờ đây có phần sợ biến cố “con voi đen” hơn là “thiên nga đen”. “Thiên nga đen”, như trường hợp đại dịch COVID- 19, là biến cố hiếm khi xảy ra nhưng khi đã xảy ra thì hậu quả rất thảm khốc và các lời giải cũ, dù hay đến đâu, cũng dường như vô hiệu.
Thưa ông, bên cạnh cải cách, tìm động lực mới, Việt Nam cũng đang xây dựng gói kích kích kinh tế cho giai đoạn 2022 - 2023, nhìn từ thực tế các nước đang triển khai. Ông có góp ý gì về gói kích thích kinh tế này?
- Điều đáng mừng là, mức độ nhiễm và tử vong vì COVID-19 đang giảm rất nhanh ở hầu hết các nước xung quanh ta và có xu thể sẽ được kiểm soát hoàn toàn vào năm 2022. Thế nhưng, “biến cố con voi đen”, nghĩa là khủng hoảng kinh tế hay tham nhũng là điều ai cũng biết (vì nó nằm lù lù đâu đó) có thể trỗi dậy bất thình lình vì thiết kế gói giải cứu kém hoặc do quản trị lạc hậu.
Vì vậy, tôi cho rằng bài toán “gói giải cứu” của Việt Nam nên gắn vào cải cách cấu trúc và đầu tư vào công nghệ, nắm bắt xu thế phát triển của thời đại nhằm tăng năng lực kiến tạo giá trị theo ba hướng chính như sau:
Thứ nhất, tăng tính liên thông cộng hưởng thông qua phát triển hạ tầng và thúc đẩy hợp tác giữa các địa phương. Việc đầu tư cho lưới điện để khai thác các nguồn điện tái tạo đã, đang, và sẽ lắp đặt nằm trong hướng này.
Thứ hai, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, và đầu tư vào năng lượng tái tạo để tăng hiệu quả và sức phát triển bền vững.
Thứ ba, tăng sự minh bạch và khai thác dữ liệu để tăng hiệu lực của quyết sách và quyết định ở mọi cấp, từ Chính phủ đến doanh nghiệp.
Năm 2022 đã đến trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn chưa được kiểm soát hoàn toàn. Từ thực tế, kinh nghiệm mà các quốc gia phát triển đã và đang làm để vượt qua, bứt tốc sau đại dịch, PGS.TS. Vũ Minh Khương nói rằng, ông tin là Việt Nam sẽ có những bước đi quan trọng để đưa nền kinh tế bước vào giai đoạn "cất cánh" trong thời gian tới. Bước khởi đầu này có vai trò đặc biệt quan trọng, nó không chỉ tạo nền tảng và đà thúc đẩy cho bước tiếp theo mà còn là một thông điệp lớn về một hành trình gian khó nhưng vẻ vang phía trước.
"Thông điệp này phải mạnh mẽ và thôi thúc, thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, khả năng kiến tạo và phẩm chất hiến dâng của lãnh đạo các cấp", PGS. TS. Vũ Minh Khương nhấn mạnh.
Trân trọng cảm ơn ông!
Lê Thúy thực hiện