Theo báo cáo từ Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), trong quý 1/2022, tổng doanh thu hợp nhất của Vinatex đạt hơn 5.152 tỷ đồng bằng 144,2% so với cùng kỳ, đạt 28,5% kế hoạch năm 2022.
Lợi nhuận trước thuế đạt 376,7 tỷ đồng, bằng 173,9% so với quý I/2021, bằng 39,6% kế hoạch năm. Trong đó có sự tăng trưởng mạnh của cả ngành sợi và ngành may. Cụ thể, ngành sợi tăng 139% và ngành may tăng 167% so với cùng kỳ.
Doanh thu vượt mong đợi
Không chỉ riêng gì Vinatex, các doanh nghiệp dệt may thành viên và các doanh nghiệp khác cũng thông báo rằng họ đã hoàn thành doanh thu quý I vượt cả mức mong đợi, các đơn hàng cũng tới tấp đủ làm đến hết quý II.
Đơn cử, Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG (mã CK: TNG) có doanh thu thuần đạt 1.260 tỷ đồng tăng 38% so với cùng kỳ. Giá vốn hàng bán tăng ít hơn mức tăng của doanh thu nên lãi gộp còn 158 tỷ đồng, tăng 42% so với quý 1/2021.
Ngành dệt may đang nỗ lực đầu tư nâng cấp nhà xưởng, đáp ứng yêu cầu về xanh hoá sản phẩm của các thị trường nhập khẩu.
Trong kỳ, TNG có gần 22 tỷ đồng doanh thu tài chính cao gấp gần 3 lần cùng kỳ, tuy nhiên các chi phí cũng tăng cao trong đó chi phí QLDN tăng cao nhất từ 44 tỷ đồng lên 82 tỷ đồng.
Kết quả, Đầu tư và Thương mại TNG lãi sau thuế 38 tỷ đồng, tăng 74% so với quý 1 năm ngoái tương đương EPS đạt 414 đồng.
Theo ban lãnh đạo TNG, trong kỳ, công ty đã bổ sung máy móc thiết bị tự động, kiểm soát sản xuất theo mốc giờ đến từng người lao động nên nhân sự lao động và số lượng sản phẩm cải thiện. Bên cạnh đó, nhu cầu mua hàng tăng, tình trạng khan hiếm container cải thiện và hàng hóa xuất khẩu không còn bị ách tắc ở cảng giúp doanh thu tăng.
Trong khi đó, Công ty cổ phần Sợi Thế Kỷ (STK) doanh thu bán hàng trong quí 1 đạt 640 tỉ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2021. Nhờ đó, Công ty hoàn thành 25% mục tiêu doanh thu kế hoạch năm 2022.
Ông Đặng Triệu Hòa, Phó Chủ tịch HĐQT Sợi Thế Kỷ, cho biết năm 2022, doanh nghiệp này đặt mục tiêu doanh thu là 2.606 tỷ đồng, tăng 28%. Lợi nhuận sau thuế 300 tỷ đồng, tăng 8%.
Ông Hòa đánh giá nhu cầu sợi sẽ phục hồi trong năm nay vì rủi ro phong tỏa, hạn chế đi lại tại Việt Nam sẽ không như năm ngoái. Trong khi đó, Trung Quốc, quốc gia cung cấp nhiều sợi cho thế giới, đang đi theo chính sách “zero Covid” nên chuỗi cung ứng tại nước này sẽ bị ảnh hưởng. Một số khách hàng quốc tế sẽ tìm đến Việt Nam hoặc các thị trường ở Đông Nam Á khác để tìm nguồn cung thay thế vì họ không biết chắc tình hình phong tỏa ở Trung Quốc sẽ diễn biến ra sao trong thời gian tới.
STK cho biết, trong quí 1, thị trường phục hồi tốt sau khi tình hình dịch bệnh đã được ổn định, các khách hàng tại thị trường trong nước và xuất khẩu đều đưa công suất hoạt động trở lại với mức trước dịch. Do đó, STK đã nắm bắt cơ hội đẩy mạnh các hoạt động nhận đơn hàng, sản xuất đơn hàng theo yêu cầu, đẩy mạnh bán hàng tồn kho và linh hoạt trong chính sách giá bán để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Ông Lê Mạc Thuấn, Phó Tổng Giám đốc Vinatex nhận định, ngành may năm 2021 gặp không ít khó khăn; trong đó khó khăn lớn nhất là sự chuyển dịch nguồn lao động tại các khu vực sản xuất công nghiệp lớn về các địa phương. Tuy nhiên tới đầu năm 2022, khi dịch bệnh được kiểm soát, lao động quay trở làm làm việc, tăng trưởng của ngành may đã quay lại thời điểm năm 2019 - khi chưa xảy ra dịch bệnh.
Theo thống kê doanh thu trung bình của các đơn vị trong hệ thống ngành may của Vinatex tại khu vực phía Nam đều tăng trung bình từ 1,2-1,5 lần, đặc biệt có đơn vị tăng tới 2 lần doanh thu so với cùng kỳ.
Nâng cấp nhà xưởng để xanh hoá sản phẩm
Mặc dù doanh thu quý I khá ấn tượng nhưng thực tế ngành dệt may vẫn còn không ít những nỗi lo cho chặng đường phía trước. Đó là việc đơn hàng đã ký kết đến hết quý II nhưng nguồn nguyên liệu đầu vào đang liên tục tăng, chi phí vận chuyển hàng hoá cũng đội giá khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn.
Theo đại diện VITAS, một số doanh nghiệp Việt Nam đang phải nỗ lực để chuyển đổi sản xuất để kịp thời đáp ứng cam kết toàn cầu và yêu cầu pháp luật của Châu Âu, trong đó có Luật Thẩm định doanh nghiệp Đức có hiệu lực vào năm 2023, yêu cầu phải nhận diện, ngăn chặn, giảm nhẹ và chịu trách nhiệm các rủi ro môi trường và xã hội trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Đáng nói, mới đây, thị trường EU, nhập khẩu trên 4 tỷ USD/năm hàng dệt may Việt Nam, đã đề xuất áp dụng một số quy định sinh thái mới đối với hàng dệt may tiêu thụ tại 27 nước thành viên.
Trên thực tế chương trình “xanh hóa” ngành dệt may đã được triển khai từ 3-4 năm qua, góp phần tích cực cải cách ngành dệt may Việt Nam, tác động vào hoạt động quản trị ngành và môi trường, mang lại nhiều lợi ích về xã hội, kinh tế.
Ông Trương Văn Cẩm - Phó Chủ tịch VITAS
Theo đề xuất này, hàng dệt may vào EU phải có tuổi thọ cao, có thể tái sử dụng và tái chế được. Tất cả những thông tin trên phải được nhà sản xuất cung cấp cho người tiêu dùng thông qua việc gắn hộ chiếu kỹ thuật số cho từng sản phẩm. Quy định sinh thái của Ủy ban châu Âu (EC) cũng kêu gọi các công ty thời trang giảm số lượng bộ sưu tập mỗi năm.
Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp đang phải đầu tư rất lớn thiết bị máy móc, nhà xưởng để xanh hoá sản phẩm, đảm bảo đủ tiêu chuẩn EU.
Đơn cử, với Tổng công ty cổ phần Dệt may Hòa Thọ, quy mô doanh thu xấp xỉ 3.900 tỷ đồng vào cuối năm 2021, lợi nhuận hợp nhất đạt 221,4 tỷ đồng, mục tiêu xanh hóa các nhà máy sản xuất cũng được Dệt may Hòa Thọ đưa vào kế hoạch khẩn trương thực hiện ngay trong năm 2022. Tại Đại hội đồng cổ đông vừa diễn ra, Hòa Thọ đã thông qua kế hoạch đầu tư lắp điện mặt trời áp mái tại trụ sở chính của Tổng công ty và tiến tới lắp đặt tại hệ thống nhà máy sản xuất.
Hay như đầu tháng Tư vừa qua, tại Tp. HCM, Tổng Công ty CP Phong Phú (Phong Phú) và Công ty TNHH Coro Renewables Việt Nam (Coro Renewables Việt Nam) đã ký kết thỏa thuận hợp tác về việc phát triển điện mặt trời áp mái trên các nhà máy tại Tp. HCM.
Ông Dương Khuê – Tổng Giám đốc Tổng Công ty CP Phong Phú cho biết, việc hợp tác lần này có ý nghĩa lớn đối với Phong Phú trong định hướng phát triển mảng năng lượng tái tạo nhằm đáp ứng tiêu chí sản xuất xanh, sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải chất thải…Việc sử dụng năng lượng sạch, thực hiện các trách nhiệm về môi trường, “xanh hóa” là nhu cầu cấp thiết cho những doanh nghiệp hướng đến hội nhập chuỗi cung ứng toàn cầu và phát triển bền vững trong tương lai. Ngoài ra còn giúp giảm áp lực an ninh năng lượng, góp phần vào mục tiêu chung là cắt giảm 8% mức phát thải khí nhà kính vào năm 2030 mà Chính phủ đã cam kết, đồng thời giúp đạt các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
Ông Trương Văn Cẩm - Phó Chủ tịch VITAS cho biết, trên thực tế chương trình “xanh hóa” ngành dệt may đã được triển khai từ 3-4 năm qua, góp phần tích cực cải cách ngành dệt may Việt Nam, tác động vào hoạt động quản trị ngành và môi trường, mang lại nhiều lợi ích về xã hội, kinh tế.
VITAS cũng đặt ra mục tiêu “xanh hóa” với kế hoạch đến năm 2023, giảm 15% tiêu thụ năng lượng, 20% tiêu thụ nước; đến năm 2030, chuyển đổi “xanh hóa” ngành dệt may Việt Nam, đồng thời xây dựng được 30 thương hiệu mang tầm quốc tế.
Nhìn về thị trường những quý tiếp theo, các chuyên gia cho rằng ngành dệt may vẫn còn nhiều việc phải làm, nhất là nếu xung đột Nga – Ukraine còn căng thẳng, lạm phát, chi phí logistics còn leo thang, thị trường sẽ có nhiều diễn biến khó lường.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng chưa thể dự đoán được thị trường sẽ ra sao sau đó, vì phụ thuộc rất nhiều vào tình hình dịch bệnh. Ngoài ra, các đối thủ của dệt may Việt Nam như Trung Quốc, Bangladesh, Ấn Độ… cũng tăng tốc và có nhiều nỗ lực để bù đắp những thiếu hụt về kim ngạch trong năm 2021.
Song, tín hiệu tích cực là các thị trường lớn như Mỹ, EU… đã mở cửa trở lại, đặc biệt là Việt Nam đã có chính sách thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế. Đây cũng là nền tảng để ngành dệt may tin tưởng vào mục tiêu xuất khẩu đạt từ 42,5 – 43,5 tỉ USD năm nay sẽ sớm hoàn thành.
Đức Anh