Các nghiên cứu đánh giá tiềm năng năng lượng tái tạo (NLTT) cho thấy đến năm 2030, Việt Nam có khả năng phát triển khoảng 8.000MW thủy điện nhỏ, 20.000MW điện gió, 3.000MW điện sinh khối, 35.000MW điện mặt trời.
Chiến lược phát triển NLTT cho giai đoạn 2015- 2030, xét đến 2050 được Chính phủ phê duyệt vào tháng 9/2015 đã đưa ra các mục tiêu cụ thể, theo đó lượng điện năng sản xuất từ các nguồn NLTT sẽ tăng từ mức 58 tỷ kWh năm 2015 lên 101 tỷ kWh năm 2020, 186 tỷ kWh năm 2030 và 452 tỷ kWh năm 2050. Về mặt tương đối, tỷ trọng điện năng sản xuất từ các nguồn NLTT sẽ tăng từ 35% năm 2015 lên mức 38% năm 2020 và 43% năm 2050.
Bất cập cơ chế giá
Tại hội thảo Phát triển NLTT diễn ra ngày 12/3, ông Cao Quốc Hưng, Thứ trưởng Bộ Công Thương, cho biết với các chính sách nhất quán và các cơ chế hỗ trợ cụ thể, chúng ta đang chứng kiến một "làn sóng" đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào lĩnh vực phát triển NLTT tại Việt Nam.
Đến cuối năm 2018, Việt Nam đã đưa vào vận hành phát điện 285 nhà máy thủy điện nhỏ với tổng công suất khoảng 3.322MW, 8 nhà máy điện gió với tổng công suất 243MW và 10 nhà máy điện sinh khối với tổng công suất nối lưới khoảng 212MW.
Về điện mặt trời, đến cuối năm 2018 có khoảng 10.000MW được đăng ký, trong đó có 8.100MW được bổ sung quy hoạch, khoảng hơn 100 dự án đã ký hợp đồng mua bán điện (PPA), 2 dự án đi vào vận hành với tổng công suất khoảng 86MW. Tổng công suất nguồn điện từ NLTT (không kể các nhà máy thủy điện cỡ vừa và lớn) đã chiếm 2,1% tổng công suất toàn hệ thống.
Tuy vậy, tiềm năng NLTT vẫn chưa được phát huy khi nhiều rủi ro vẫn hiện hữu. Liên quan tới biểu giá điện hỗ trợ (FIT), bà Linh Doan, Cố vấn Pháp luật Watson Farley & Williams, cho biết giá FIT điện mặt trời sẽ kết thúc vào 30/6/2019, một đề xuất dự thảo đã có vào tháng 2/2019 nhưng vẫn chưa được thông qua thành luật.
Bên cạnh đó, hạn chót vận hành thương mại cho các dự án gió ngoài khơi là ngày 1/11/2021 không phản ánh thực tế phát triển gió ngoài khơi, không thu hút đầu tư nước ngoài, trong khi các nhà phát triển và nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi sự ổn định và niềm tin từ phía Chính phủ.
Theo ông Nguyễn Minh Duệ, Chủ tịch Hội đồng khoa học, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, doanh thu và lợi nhuận của dự án phụ thuộc rất lớn vào giá điện quy định.
Quy định mới về giá điện gió, căn cứ vào Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 39/2018 QĐ-TTg ngày 10/9/2018 cho thấy dự án điện gió trên đất liền là 1.928 đồng/kWh, tương đương 8,5 UScent/kWh; dự án điện gió trên biển là 2.223 đồng/kWh, tương đương 9,8 Uscent/kWh.
"Quy định mới về giá điện gió là một ưu tiên lớn đối với dự án đầu tư điện gió, đặc biệt điện gió trên biển như Kê Gà (Bình Thuận). Tuy nhiên, dự án phải nối lưới và vận hành thương mại trước ngày 1/11/2021. Đây là thách thức đối với dự án đầu tư Kê Gà trong việc đưa công trình vào vận hành thương mại đúng theo quy định", ông Dụê cho biết.
Các nhà đầu tư đòi hỏi chính sách phát triển NLTT phải ổn định |
Thận trọng tính toán rủi ro
Phản ánh những khó khăn khi phát triển điện mặt trời áp mái, ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), cũng cho biết đến nay, EVN chưa thể ký hợp đồng mua bán điện mặt trời với khách hàng do chưa có hướng dẫn chính thức về cách thức thanh quyết toán tiền điện cho khách hàng.
Giá thành lắp đặt 1 kWp điện mặt trời còn cao (khoảng 1.000 USD), chưa có chính sách hỗ trợ về vốn vay đối với các dự án điện mặt trời và các chương trình hỗ trợ chi phí lắp đặt cho khách hàng.
Liên quan tới chính sách giá bán lẻ, EVN cho biết, Nghị quyết số 18- NQ/TW ngày 25/10/2007 khuyến khích loại bỏ chế độ độc quyền trong ngành điện; biểu giá phải được xác định theo cơ chế thị trường. Thực tế, giá bán lẻ được áp dụng đồng nhất cho mọi khu vực, dẫn đến giá không phản ánh nhu cầu thị trường, hạn chế cạnh tranh và khó khuyến khích đầu tư. Chưa kể, biểu giá điện bị kiểm soát hoàn toàn trong khi năng lượng sơ cấp khác (than, khí) biến động, dẫn tới thiếu vốn đầu tư.
Đánh giá tổng thể, ông Nguyễn Minh Duệ cho rằng đối với bất kỳ dự án đầu tư nào, bên cạnh lợi ích đạt được cũng gặp phải những rủi ro, đặc biệt đối với dự án điện NLTT mới mẻ và phụ thuộc vào điều kiện thiên nhiên nên rủi ro càng lớn.
Theo ông Duệ, xuất phát từ đặc thù của các dự án đầu tư điện gió, điện mặt trời, các yếu tố rủi ro được nhận dạng như tổng mức đầu tư dự án điện NLTT phụ thuộc vào suất vốn đầu tư cho một đơn vị công suất. Các dự án điện gió, điện mặt trời có suất vốn đầu tư dao động rất lớn tuỳ thuộc vào địa điểm, thị trường thiết bị làm tăng – giảm tổng mức đầu tư dự án, gây rủi ro rất lớn, các nhà đầu tư cần xem xét đánh giá.
Bên cạnh đó, về hệ số chiết khấu tài chính, các công trình NLTT lớn, vốn vay thường chiếm tỷ lệ cao trong tổng mức đầu tư, nguồn vốn vay, lãi suất vay lớn sẽ làm tăng giá trị hệ số chiết khấu tài chính ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư nên cần phải xem xét đánh giá.
Cuối cùng là sản lượng điện phát lên lưới phụ thuộc vào thời gian có gió trong năm và tốc độ gió có được tại khu vực dự án. Trong khi đó, vận tốc gió trung bình ở nhà máy vận hành có thể cao hơn hoặc thấp hơn vận tốc gió trung bình đo được trong nghiên cứu khả thi. Những biến đổi khó lường của tốc độ gió, độ chiếu sáng hàng năm sẽ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về sản lượng điện phát ra của dự án. Mặt khác có những thời điểm khả năng phát của nhà máy tốt nhưng nhu cầu của phụ tải phía mua thấp thì sản lượng điện bán ra của nhà máy cũng thấp, do đó doanh thu của nhà đầu tư có nguy cơ giảm.
Ông Duệ nhấn mạnh, bên cạnh hỗ trợ từ phía chính sách, để các dự án điện NLTT trở thành khả thi, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đề nghị chủ đầu tư và phía Nhà nước xúc tiến một số nội dung quan trọng, trong đó có phần phân tích, đánh giá hiệu quả dự án đầu tư điện NLTT (đặc biệt là điện gió, điện mặt trời) có tính đến yếu tố rủi ro – áp dụng cho các dự án điện gió, điện mặt trời.
Mặt khác, ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, cho hay do tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện của Việt Nam rất cao nên việc đẩy nhanh phát triển NLTT (điện gió, điện mặt trời) cũng cần phải chú ý tới một số đặc điểm như công suất phát của các nguồn điện này phụ thuộc vào điều kiện thời tiết nên cần có giải pháp để ổn định chất lượng điện năng (kết hợp phát triển với hệ thống lưu trữ năng lượng).
Các dự án NLTT cần được ưu tiên phát triển tại khu vực có nhu cầu (khu vực miền Nam) và có tính đến khả năng truyền tải của hệ thống lưới điện. Các dự án NLTT khi xem xét cần đảm bảo sự phát triển đồng bộ giữa nguồn và lưới điện, đảm bảo khả năng vận hành an toàn, kinh tế của hệ thống điện và hiệu quả đầu tư chung của toàn xã hội.
Lê Thúy
Ông Cao Quốc Hưng - Thứ trưởng Bộ Công Thương Việc phát triển nhanh các nguồn NLTT trong thời gian qua cũng đang đối mặt với một số bất cập và thách thức như chi phí đầu tư còn cao, số giờ vận hành nguồn điện thấp, cơ sở hạ tầng lưới điện một số khu vực nhiều tiềm năng về NLTT chưa sẵn sàng để giải phóng công suất, yêu cầu sử dụng đất lớn (nhất là các dự án điện mặt trời), các khó khăn trong điều khiển, điều độ hệ thống điện khi tỷ trọng nguồn điện từ NLTT trong hệ thống tăng lên… Trong thời gian tới sẽ cần có một chương trình để giải quyết lần lượt các bất cập này. Bà Linh Doan - Cố vấn Pháp luật Công ty Watson Farley & Williams Việt Nam hiện có nhiều khả năng và kinh nghiệm để thực hiện và phát triển thị trường NLTT nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Vấn đề ở đây chính là áp dụng chúng như thế nào. Các nhà phát triển và nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi sự ổn định và niềm tin từ phía Chính phủ. Tránh các hành động hồi cứu liên quan đến các suất giá FIT, tác động bất lợi của những hành động như vậy đã được nhìn thấy rõ ràng ở Đài Loan và sẽ đóng vai trò là một cảnh báo cho Việt Nam. Ông Trần Viết Ngãi - Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Việt Nam cần hoàn thiện và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia, các tiêu chuẩn chuyên ngành liên quan đến công tác thiết kế, vận hành các nguồn điện sử dụng NLTT; tiêu chuẩn đấu nối lưới điện của các nguồn NLTT; các tiêu chuẩn kỹ thuật các thiết bị được phép tham gia phát và truyền tải điện từ nguồn NLTT. Nghiên cứu xây dựng hạ tầng kỹ thuật để đảm bảo công tác dự báo (gió, bức xạ mặt trời…) chính xác, tin cậy. |