Ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, vui mừng thông báo điều này khi thực tế hiện nay, chúng ta đang phải nhập khẩu (NK) 100% thép cuộn cán nóng từ nước ngoài, con số lên tới hàng triệu tấn mỗi năm.
Ông có thể cho biết ngành thép đã có những bước tiến thế nào trong năm qua, và dự báo về sự tăng trưởng của ngành trong năm 2018?
Thị trường thép trong những năm qua, đặc biệt là giai đoạn 2016 – 2017, phát triển rất tốt. Sản xuất và tiêu thụ đều tăng.
Đặc biệt, các DN thép hầu hết đạt được mức độ lợi nhuận tương đối cao. So với năm 2016, ngành thép đã đạt mức tăng trưởng hơn 23%, tiêu thụ hơn 20% trong năm 2017, đây là mức tăng trưởng khá cao. Đồng thời, chúng ta cũng xuất khẩu (XK) được 4,7 triệu tấn, tăng 28% so với năm 2016.
Có được sự tăng trưởng mạnh này là do nền kinh tế đang phát triển, phải xây dựng rất nhiều cơ sở hạ tầng, cầu cống, bến cảng, sân bay, đô thị, nhà ở nhân dân… do đó nhu cầu thép ngày càng tăng cao.
Trong năm 2018, ngành thép sẽ tiếp tục phát triển. Nguyên nhân là lực lượng sản xuất tăng trưởng bởi có nhiều dự án được đưa vào sản xuất hơn. Đồng thời, trong năm 2017, một trong những điểm yếu của Việt Nam là giải ngân cho các công trình đầu tư công rất chậm và không đạt kế hoạch, do đó Chính phủ đã rút kinh nghiệm và sẽ đẩy mạnh việc giải ngân. Đó là một trong những địa chỉ tiêu thụ nhiều thép nên hứa hẹn một thị trường tốt cho công nghiệp thép Việt Nam trong năm nay.
Tuy nhiên, để tận dụng được những cơ hội này, biện pháp căn cơ nhất vẫn là nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thép trong nước. Theo đó, cần đầu tư công nghệ tiên tiến, có đội ngũ nhân lực giỏi, áp dụng những biện pháp quản lý hiện đại mới có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh.
![]() |
Ông Nguyễn Văn Sưa - Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam
Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) chắc chắn sẽ mang tới nhiều cơ hội rất lớn cho ngành thép nhưng sẽ đi kèm là các thách thức. Ngành thép đã chuẩn bị cho điều này thế nào?
Mọi FTA được ký kết đều hướng tới mục tiêu tự do hóa thương mại, tạo ra cơ hội cho Việt Nam nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức.
Vấn đề là chúng ta phải hiểu thật rõ và sâu sắc thương mại quốc tế để có những ứng xử cần thiết. Bên cạnh đó, tôi nghĩ ngành thép Việt Nam trong thời gian tới nên có hướng xây dựng những DN đủ lớn, có khả năng cạnh tranh với sản phẩm thép của các nước.
Muốn vậy, phải tạo ra các DN có năng lực sản xuất lớn, có trình độ công nghệ cao, có năng lực quản trị tốt để tạo sản lượng 7 – 10 triệu tấn/năm.
Khó khăn cho chúng ta hiện nay là vấn đề vốn, công nghệ và thiết bị. Công nghệ và thiết bị có thể NK nhưng nếu thiếu vốn sẽ chẳng làm được gì.
Thời gian qua, Trung Quốc đang đẩy mạnh cắt giảm sản lượng thép thừa trên thị trường, điều này có ảnh hưởng gì đến ngành thép Việt Nam, nhất là việc Bộ Thương mại Mỹ nghi ngờ 90% thép Việt xuất sang nước họ là do thép Trung Quốc “đội lốt”?
Năng lực sản xuất thép của Trung Quốc quá cao, phát triển thép quá nóng và sản xuất quá nhiều, vượt quá nhu cầu của nội địa. Việc cắt giảm để đảm bảo hiệu quả của ngành thép Trung Quốc sẽ phần nào ảnh hưởng đến Việt Nam.
Tuy nhiên, tôi cho rằng một số thông tin được đưa trên báo chí thời gian vừa qua cho rằng 90% thép Việt Nam vận chuyển sang Mỹ được sản xuất tại Trung Quốc là không chính xác vì thực tế chỉ có một số lượng rất ít.
Hơn nữa, Việt Nam dễ dàng giải quyết được vấn đề này vì từ năm nay, chúng ta đã có thể sản xuất đủ số lượng thép cuộn cán nóng để sản xuất các sản phẩm thép khác, đảm bảo đủ nguồn gốc xuất xứ 100% Việt Nam.
Liệu rằng điều này có khả thi khi thuế NK thép từ Trung Quốc giảm về 0% do FTA ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) có hiệu lực, lúc này, thép Trung Quốc lại càng có cửa vào Việt Nam?
Chính vì vậy, ngành thép cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm để có thể cạnh tranh với thép Trung Quốc, sử dụng thành thạo các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước. Các nước như Mỹ và châu Âu sử dụng những công cụ này khá thành thạo.
Trên thực tế năm 2017, Việt Nam đã sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại khá hiệu quả. Cụ thể, khối lượng phôi thép từ Trung Quốc nhập vào Việt Nam năm 2015 là 2 triệu tấn. Mặc dù trong tháng 3 đã áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại nhưng 1,2 triệu tấn phôi thép đã kịp nhập vào Việt Nam trong năm 2016, và trong năm ngoái chỉ còn vài trăm nghìn tấn, trong đó chủ yếu là phôi dẹt để cán thép tấm, thép xây dựng hầu như không còn.
Trong năm 2016, Việt Nam NK tới 1,8 triệu tấn tôn mạ. Sau khi áp dụng thuế phòng vệ thương mại, NK tôn mạ đã giảm đi rất nhiều, chỉ còn 1,2 triệu tấn trong năm ngoái.
Thời gian qua, Trung Quốc đã đóng cửa lò cảm ứng vì sợ ô nhiễm môi trường, trong khi ngành thép Việt Nam vẫn sử dụng khá nhiều loại lò này. Để tránh “dẫm” lên tình trạng như Trung Quốc, chúng ta phải làm gì, thưa ông?
Hiện tại, Việt Nam chưa có kế hoạch đóng cửa các lò cảm ứng vì chúng ta áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại đối với phôi thép nhưng năng lực lò điện hồng quang chưa đủ nên lò cảm ứng có phần đóng góp tích cực.
Tuy nhiên cần lưu ý, lò cảm ứng chỉ sản xuất được một số sản phẩm chất lượng trung bình, không sản xuất được sản phẩm thép có chất lượng cao, chưa kể còn gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, nhà đầu tư cần lưu ý nhìn xa trông rộng, không nên đầu tư quá mức phát triển lò cảm ứng vì có thể bị hạn chế trong tương lai, lúc đó nhà đầu tư sẽ chịu thiệt hại lớn.
Thy Lê thực hiện