Như vậy, sau gần hai năm nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ ba chỉ dẫn địa lý của Việt Nam gồm: vải thiều Lục Ngạn, thanh long Bình Thuận, cà-phê Buôn Ma Thuột tại Nhật Bản. Cuối cùng thì quả vải Việt Nam cũng đã “danh chính, ngôn thuận” tại thị trường Nhật Bản. Đây cũng là sản phẩm đầu tiên của Việt Nam được cấp bằng chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản.
Quả vải Việt Nam được bày bán trong một siêu thị ở Nhật Bản. Ảnh Int. |
Trước đó, vải thiều tỉnh Bắc Giang cũng được bảo hộ thành công nhãn hiệu tại nhiều quốc gia khác như Trung Quốc, Lào, Campuchia, Hàn Quốc, Singapore, Australia và được tiêu thụ ở nhiều nước trên thế giới.
Mặc dù trên thực tế, quả vải Bắc Giang đã có mặt trên thị trường Nhật Bản từ lâu, nhưng vì chưa được bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại đây nên quả vải vẫn phải chịu “thiệt đơn, thiệt kép” khi buộc phải gắn tên của doanh nghiệp nhập khẩu phía Nhật Bản thì mới vào được các siêu thị.
Nhưng kể từ nay, khi đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý, quả vải sẽ đàng hoàng bước vào các siêu thị và gắn tên địa danh quê nhà là “vải thiều Lục Ngạn”. Chắc chắn điều này sẽ khiến danh tiếng của quả vải được bay xa hơn, và tất nhiên rất nhiều cơ hội đang chờ, bởi lẽ khi đã được thị trường khó tính này chấp nhận thì sẽ có rất nhiều thị trường khó tính khác “mở cửa” đón chào.
Nhưng cũng phải nói thêm rằng, dù đã “danh chính, ngôn thuận” ở thị trường Nhật Bản không có nghĩa là quả vải thiều Lục Ngạn có thể “tự do” đến được thị trường này. Đây mới chỉ là những động thái chính thức đầu tiên, còn mức độ chấp nhận của thị trường với quả vải Việt Nam như thế nào lại là một câu chuyện khác. Cho dù được chứng nhận chỉ dẫn địa lý, nhưng nếu người trồng vải và các cơ quan kiểm soát không tiếp tục nâng cao chất lượng về an toàn thực phẩm thì quả vải vẫn khó tồn tại được ở thị trường Nhật Bản.
Xa hơn nữa, câu chuyện của quả vải cũng sẽ là một kinh nghiệm lớn cho các sản phẩm nông sản khác của Việt Nam. Đặc biệt khi tìm hiểu quá trình phía Nhật Bản thẩm định chất lượng quả vải mới thấy rằng chúng ta còn thiếu nhiều yếu tố. Chẳng hạn, chúng ta chưa có nhiều nghiên cứu sâu về quả vải, về những yếu tố như thổ nhưỡng, khí hậu, các tài liệu khoa học về quả vải rất ít… mà chỉ có các tài liệu về kỹ thuật canh tác, các phương pháp trồng trọt truyền thống… nên khi phía Nhật yêu cầu cung cấp các tài liệu cơ sở khoa học, nghiên cứu sâu về quả vải, đã rất khó khăn khi cung cấp.
Đây không còn là câu chuyện của riêng quả vải nữa mà nó là bài học kinh nghiệm cho rất nhiều nông sản khác của Việt Nam. Đặc biệt, khi muốn đưa sản phẩm tới các thị trường khó tính cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng các tài liệu chỉ dẫn, các chứng cứ khoa học… đối với sản phẩm.
Hiện nay, nhiều nông sản Việt Nam như: xoài, thanh long, gạo, cà phê, ổi… được các thị trường khó tính như: Mỹ, Nhật Bản, EU… rất ưa chuộng, nhưng dường như chúng ta vẫn rất khó khăn để đủ tiêu chuẩn vào thị trường, hoặc phải thông qua thương hiệu của nhà nhập khẩu mới có thể vào được. Đã đến lúc các Bộ, ngành, địa phương và cả các DN, các HTX nông nghiệp … cần có những định hướng, nghiên cứu sâu, khoa học, bài bản về các loại nông sản để sẵn sàng “show” ra khi cần, đồng thời cũng là "hành trang" cho những chuyến đi xa của nông sản Việt.
Quốc Anh