Hiện nay, làng nghề, làng nghề truyền thống đã và đang đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân tỉnh Thái Bình. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số làng nghề trong tỉnh vẫn chậm được khắc phục.
Xử lý ô nhiễm môi trường từ mô hình HTX
Tại HTX Dịch vụ nông nghiệp xã Đông Thọ (thành phố Thái Bình) đang là một trong những điển hình gắn liền phát triển sản xuất với bảo vệ môi trường. Là xã có nghề truyền thống sản xuất miến dong từ hơn 100 năm, đến nay, tuy số hộ làm nghề giảm chỉ chỉ còn trên 20 hộ nhưng nhờ đầu tư máy móc nên sản lượng vẫn đạt từ 60 - 70 tấn bột dong/hộ/tháng, lợi nhuận từ 100 - 300 triệu đồng/hộ/năm.
Tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số làng nghề trong tỉnh Thái Bình vẫn chậm được khắc phục. |
Ông Phạm Ngọc Linh, Giám đốc HTX dịch vụ nông nghiệp xã Đông Thọ cho biết: Để quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề, năm 2018, UBND xã đã giao cho HTX nhiệm vụ thu gom, quản lý và xử lý ô nhiễm môi trường trên địa bàn.
HTX đã điều chỉnh lại phương án sản xuất, kinh doanh, bố trí lại nhân sự quản lý, điều hành hoạt động của HTX theo hướng vừa thực hiện tốt các hoạt động cung ứng dịch vụ cho thành viên sản xuất nông nghiệp vừa tổ chức quản lý, thu gom và xử lý ô nhiễm môi trường trên địa bàn xã.
Trong đó chủ yếu từ các hộ chế biến miến dong, HTX đã thành lập 1 tổ vệ sinh môi trường chuyên thu gom, vận chuyển rác thải về nơi tập kết.
Đặc biệt, được sự hỗ trợ của Liên minh HTX Việt Nam, HTX đầu tư trạm bơm, nạo vét kênh mương, hệ thống xử lý nước thải... với tổng trị giá trên 700 triệu đồng. Trên cơ sở đó, HTX thực hiện tu sửa, khơi thông toàn bộ 400m mương thoát nước từ các hộ gia đình chế biến miến dong đến trạm bơm, nâng cấp toàn bộ trạm bơm để chủ động bơm tiêu thoát nước khi cần thiết. Thông qua hướng dẫn, các hộ thành viên chế biến miến dong lắp hệ thống xử lý chất thải lỏng tại nhà để xử lý trước khi xả ra mương. Nhờ đó, quy trình sản xuất của HTX như một vòng quay tái tạo, vừa giúp tiết kiệm chi phí, bảo vệ môi trường lại mang lại hiệu quả kinh tế.
Hay như tại HTX dịch vụ nông nghiệp Đông Xuân, huyện Đông Hưng, ngoài tạo việc làm cho hàng chục lao động nông nhàn, giúp thành viên và người lao động có việc làm ổn định, góp phần an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững tại địa phương, HTX còn rất chú trọng công tác môi trường. Theo đó, HTX vận động bà con cải tiến máy móc, dùng các sản phẩm inox để thay thế cho các vật liệu bằng gang, sắt… nên các nguy cơ ô nhiễm môi trường ở làng nghề trước đây như tiếng ồn, khói bụi... đã được hạn chế nhiều.
Ngoài ra, trong quá trình sản xuất bún phải sử dụng rất nhiều nước. Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nguồn nước trong quá trình làm bánh bún đều đã được HTX vận động người dân người dân lọc lại và tận dụng làm thức ăn chăn nuôi.
Cần cơ chế phù hợp
Hiện nay, công tác quản lý môi trường tại các làng nghề vẫn tồn tại nhiều bất cập do chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định riêng đối với vấn đề bảo vệ môi trường làng nghề theo đặc thù của mỗi loại hình sản xuất. Mặt khác, các làng nghề, làng nghề truyền thống tại Thái Bình nằm phân tán trong khu dân cư, nguy cơ ô nhiễm chỉ giới hạn trong phạm vi một khu vực thôn, làng, xã nên rất khó quy hoạch.
Sản xuất miến dong tại HTX Dịch vụ nông nghiệp xã Đông Thọ. |
Các nguy cơ ô nhiễm về nguồn nước sinh hoạt, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn… đều cần phải được xử lý theo đúng quy trình với nguồn kinh phí đầu tư lớn, trong khi đa số các hộ sản xuất tại làng nghề đều là cơ sở sản xuất nhỏ lẻ nên không đủ nguồn lực tài chính để đầu tư hệ thống xử lý chất thải đạt quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành.
Kèm theo đó, hệ thống quản lý môi trường làng nghề còn hạn chế nên chưa có được những con số thống kê về tổng lượng cũng như tính chất của khí thải, nước thải và rác thải.
Ở góc độ quản lý nhà nước, theo ông Đặng Đình Chương, Trưởng phòng Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp, Sở Công Thương tỉnh Thái Bình, một trong những giải pháp tối ưu để kiểm soát ô nhiễm môi trường ở các làng nghề chính là việc quy hoạch vùng sản xuất tập trung. Đồng thời, tại các khu vực này phải được quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đầy đủ, đặc biệt là các công trình xử lý môi trường. Tuy nhiên, đây là giải pháp không thể làm được trong một sớm một chiều bởi nguồn kinh phí của tỉnh còn rất hạn hẹp.
Để bảo vệ môi trường làng nghề, làng nghề truyền thống được tốt hơn, trong thời gian tới, các cấp chính quyền cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường làng nghề để các hộ, cơ sở sản xuất trong làng nghề biết và thực hiện.
Thái Bình hiện có khoảng 30 làng nghề chế biến nông, lâm, thủy sản nằm xen kẽ trong khu dân cư. Vấn đề môi trường tại các làng nghề đang tồn tại nhiều bất cập: Nước thải từ sản xuất không được xử lý gây ô nhiễm nguồn nước, bụi, tiếng ồn từ các làng nghề chế biến lâm sản... Công tác bảo vệ môi trường làng nghề về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, thành lập mới các HTX môi trường hoặc phát triển dịch vụ môi trường của các HTX nông nghiệp không chỉ góp phần bảo vệ môi trường mà còn tạo việc làm cho nhiều lao động nông thôn.
Đoàn Huyền