HTX chăn nuôi Hoàng Long xã Tân Ước, huyện Thanh Oai (Hà Nội) được thành lập từ năm 2013, có 30 thành viên. Trong quá trình phát triển, HTX đã xây dựng khu chăn nuôi khép kín, với tổng kinh phí đầu tư khoảng 60 tỷ đồng. Đồng thời tổ chức sản xuất thức ăn chăn nuôi trên diện tích 720 m2 và xây dựng khu xử lý chất thải ngoài hàng rào khu vực chuồng trại khoảng 2,8 ha.
Lan tỏa câu chuyện chuyển đổi số
Ông Nguyễn Trọng Long, giám đốc HTX cho biết, ngoài chăn nuôi lợn giống, lợn thịt, HTX còn tổ chức giết mổ, làm mát, cấp đông và chế biến sản phẩm từ thịt như: Giò, chả, xúc xích… với nhãn hiệu "Thịt lợn sinh học A-Z". Sản lượng thịt có ký kết hợp tiêu thụ 60 tấn/tháng, cho doanh thu 50-70 tỷ đồng/năm và thu nhập bình quân thành viên HTX khoảng 180 triệu đồng/năm.
HTX Chăn nuôi Hoàng Long đang chăn nuôi 400 lợn nái và hơn 4.000 lợn thương phẩm nhưng nhờ ứng dụng công nghệ, HTX chỉ sử dụng 8 lao động, vừa giảm chi phí, vừa bảo đảm chăn nuôi an toàn sinh học. |
"Qua 15 năm xây dựng và phát triển, HTX Chăn nuôi Hoàng Long đã có một quyết định đúng đắn, đó là đầu tư ứng dụng công nghệ cao một cách bài bản và đồng bộ vào sản xuất. Quyết định đó đã mang lại những hiệu quả thiết thực cho HTX khi trên diện tích hơn 2 ha với chuỗi nhà tầng khép kín. HTX đang chăn nuôi 400 lợn nái và hơn 4.000 lợn thương phẩm nhưng chỉ sử dụng 8 lao động, vừa giảm chi phí, vừa bảo đảm chăn nuôi an toàn sinh học. Đây là cách làm hiệu quả, phù hợp với xu hướng sản xuất hiện đại và giúp HTX vượt qua được những khó khăn, ảnh hưởng do dịch bệnh, trụ vững và phát triển đến hiện tại", ông Long chia sẻ.
Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, HTX Nấm Tam Đảo là một trong những đơn vị thực hiện chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh đem lại hiệu quả cao. Với diện tích sản xuất 2,5 ha trồng nấm sò trái vụ và đông trùng hạ thảo, HTX đã đầu tư hệ thống phòng lạnh công nghiệp, kho lạnh bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, hệ thống phòng nhân giống, cấy mô cùng dây chuyền máy đóng bịch, nồi hơi hấp thanh trùng… để sản xuất sản phẩm nấm đạt chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng khó tính của thị trường.
Khu nhà trồng nấm được HTX xây dựng kiên cố, thoáng mát, bố trí xa khu chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nấm thương phẩm sau khi thu hoạch được để trong túi ni-lông, đóng thùng xốp, bảo quản và vận chuyển với nhiệt độ thích hợp nhằm giữ tươi được lâu, bảo đảm chất lượng.
Để nâng cao ý thức sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường, HTX tạo điều kiện cho thành viên tham gia các lớp tập huấn chuyển giao khoa học - kỹ thuật trồng nấm an toàn. Từ đó, người dân, thành viên ngày càng nâng cao nhận thức trong sản xuất, bỏ hẳn suy nghĩ muốn có nấm thì phải sử dụng các loại thuốc hóa học. Đặc biệt, HTX vận động thành viên đầu tư cơ sở vật chất: kệ, xưởng khép kín, máy phục xương… để phục vụ nấm phát triển, từ đó hạn chế việc sử dụng thuốc khi nấm nhiễm bệnh, tránh lây lan mầm bệnh, ảnh hưởng môi trường cũng như sức khỏe con người.
Theo đó, trung bình mỗi năm, HTX cung cấp ra thị trường 350 tấn nấm, lợi nhuận đạt trên 700 triệu đồng, đem lại thu nhập ổn định cho 20 hộ thành viên. Năm 2021, HTX có 2 sản phẩm được công nhận OCOP 3 sao.
Vẫn còn nhiều việc cần làm
Thế nhưng, số lượng HTX ứng dụng công nghệ cao hiệu quả như 02 HTX kể trên không phải là nhiều, đa số các HTX vẫn loay hoay trong câu chuyện chuyển đổi số.
Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ cao luôn đòi hỏi các HTX phải thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân lực. Tuy nhiên, hầu hết các HTX nông nghiệp đều có quy mô nhỏ, vốn điều lệ thấp, do đó việc thu hút nguồn lao động trẻ, có kiến thức, năng lực chuyên môn phù hợp để làm việc lâu dài còn hạn chế.
Đơn cử như tại HTX dịch vụ nuôi trồng thủy sản Hoằng Lưu (Hoằng Hóa, Thanh Hóa), là 1 trong 5 HTX được UBND tỉnh hỗ trợ đưa nhân lực có trình độ từ cao đẳng, đại học về làm việc tại các HTX nông nghiệp, với thời hạn 36 tháng, theo Kế hoạch 115/KH-UBND của UBND tỉnh Thanh Hóa về thực hiện thí điểm đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2018-2020.
Việc tăng cường nhân lực có trình độ đã góp phần nâng cao năng lực sản xuất, nhất là trong việc di ương con giống thủy sản, mở rộng diện tích nuôi trồng theo hướng thâm canh và từng bước ứng dụng việc nuôi tôm công nghiệp trong nhà lưới. Song, sau 3 năm được hỗ trợ, HTX lại không đủ kinh phí giữ chân nhân lực này để tiếp tục phát triển những dự án công nghệ cao còn dang dở.
Một trong những khó khăn lớn nhất đối với các HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chính là thiếu nguồn lực đầu tư phát triển, nhất là vốn, quỹ đất, lao động có trình độ chuyên môn… Vì vậy, nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao chưa hoàn thiện, các HTX mới chỉ đầu tư từng phần, không đồng bộ từ đầu tư con giống đến sản xuất, sơ chế, chế biến, thị trường tiêu thụ sản phẩm... Năng lực quản trị và điều hành của một số cán bộ HTX còn hạn chế nên gặp nhiều khó khăn khi hoạch định sản xuất, kinh doanh.
Theo thống kê của Liên minh HTX Việt Nam, tính đến thời điểm hiện tại, trong 1.718 hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chỉ có 240 hợp tác xã sử dụng phần mềm quản lý và sản xuất thông minh, chiếm 1,5%. Trong đó, các HTX này chỉ tập trung vào ứng dụng công nghệ tưới tiêu, hệ thống nhà lưới, dán tem truy xuất nguồn gốc.
Trong khi đó, ứng dụng chuyển đổi số vào khâu chế biến, quản lý hợp tác xã, kinh doanh sản phẩm chưa thực sự được các HTX chú trọng… Điều này khiến nhiều hợp tác xã nông nghiệp rơi vào tình trạng không quản lý hiệu quả các nguồn lực, lỡ mất thời cơ để phát triển.
Trong bối cảnh đó, các địa phương bằng nguồn lực của mình cũng đang có nhiều nỗ lực hỗ trợ khu vực KTTT, HTX nâng cao năng lực trong ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.
Chẳng hạn ở Sở TT-TT tỉnh Thái Nguyên ký kết hợp tác với Công ty CP Misa triển khai chương trình hỗ trợ miễn phí cho các HTX, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ, hộ kinh doanh cá thể, tiếp cận, ứng dụng các nền tảng chuyển đổi số.
Bởi vậy, việc làm thế nào để các HTX có thể số hóa nhanh, đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế cũng là điều mà lâu nay, Liên minh HTX Việt Nam, tổ chức đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khu vực HTX trăn trở.
Để hiện thực hóa câu chuyện này, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trên cả nước nghiên cứu, phân bổ kinh phí để thành lập và đưa vào hoạt động trung tâm có vai trò đầu mối trong hỗ trợ phát triển, nhất là chuyển đổi số cho các hợp tác xã.
Theo đó, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam sẽ huy động các nguồn lực, phối hợp chặt chẽ với Liên minh Hợp tác xã cấp tỉnh đẩy mạnh tư vấn, hỗ trợ các hợp tác xã, tổ hợp tác, liên hiệp hợp tác xã về xúc tiến thương mại, ứng dụng công nghệ cao, đào tạo nhân lực, vốn tín dụng, pháp lý…
Dự kiến đến năm 2025, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam sẽ xây dựng và đưa vào khai thác dự án ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động tư vấn, hỗ trợ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và tổ hợp tác trên địa bàn cả nước.
Phương Thảo