Tại tọa đàm “Dự toán Ngân sách Nhà nước năm 2022 - Khả năng đáp ứng mục tiêu về an sinh xã hội”, được tổ chức ngày 5/11, mặc dù ghi nhận những kết quả thực hiện trong quá trình triển khai Nghị quyết 68 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, song các chuyên gia đánh giá, các chính sách ứng phó về kinh tế của Việt Nam để thích ứng với dịch bệnh còn có quy mô nhỏ và thiếu cân bằng.
![]() |
Các chuyên gia cho rằng, cần tăng cường chương trình trợ cấp tiền mặt cho người gặp khó khăn vì COVID-19. |
Theo đó, tổng gói hỗ trợ bằng ngân sách là 26.000 tỷ đồng, chiếm 0,4% GDP là quá nhỏ, trong khi các nước láng giềng chi khoảng 5% GDP. Trong đó, chính sách hỗ trợ đặt trọng tâm quá nhiều vào hỗ trợ tạm dừng, giảm đóng các chế độ bảo hiểm xã hội.
Trong khi đó, người dân cần nhất lúc nào là hỗ trợ tiền mặt thì quy mô gói này chỉ 2.533 tỷ đồng, thấp hơn rất nhiều so với quy mô gói hỗ trợ năm 2020 theo Nghị quyết 42 (35.880 tỷ đồng). Đáng lưu ý, chính sách hỗ trợ tiền mặt trong năm 2021 đã bỏ qua các nhóm đối tượng yếu thế - những người cần hỗ trợ nhất: hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội... Điều này có thể tạo ra bất bình đẳng trong thực hiện chính sách, ảnh hưởng đến mục tiêu "không bỏ ai lại phía sau".
Mặc dù vậy, chính sách hỗ trợ triển khai rất chậm. Bà Phạm Minh Thu, Viện Khoa học Lao động và Xã hội phân tích. Với Nghị quyết 68, hiện có 3 nhóm nguồn chính sách gồm nhóm từ nguồn quỹ bảo hiểm; nhóm từ nguồn vốn cho vay thông qua các ngân hàng chính sách xã hội ở địa phương và nhóm chính sách trợ cấp tiền mặt bằng ngân sách. Tuy nhiên, hiện nay việc tiếp cận các chính sách này còn chậm.
Cụ thể, tính đến ngày 1/11 chính sách bảo hiểm mới giải ngân được 5.281.371 triệu đồng; Chính sách cho vay đạt 462.012 triệu đồng; chính sách trợ cấp tiền mặt đạt 19.588.377 triệu đồng.
Nguyên nhân việc triển khai chậm do khó khăn về thủ tục. Trong khi lợi ích mà họ được hưởng thì không nhiều khiến cho các doanh nghiệp tỏ ra không mặn mà, không quyết tâm theo đuổi để thực hiện các thủ tục, kể cả việc đi vay. Hay như chính sách đào tạo, hỗ trợ đào tạo cho người lao động 1 triệu đồng/người nhưng kèm theo đó doanh nghiệp phải nộp rất nhiều giấy tờ liên quan.
Còn câu chuyện hỗ trợ tiền mặt đang giao cho các địa phương tự chủ và có quyền quyết định việc hỗ trợ đối tượng nào và hỗ trợ bao nhiêu. Với các địa phương lớn như: Hà Nội, Bình Dương, TP.HCM có tiềm lực nên việc triển khai được nhiều hơn, nhưng ở các tỉnh nghèo, ngân sách hạn hẹp, số lượng người dân được hỗ trợ rất ít. “Rõ ràng, ở đây có câu chuyện về sự hạn chế của ngân sách địa phương trong việc thực hiện hỗ trợ cho nhóm lao động tự do," bà Thu nhấn mạnh.
Đồng tình, TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược (VESS) nhìn nhận: “Có một nghịch lý cần lưu ý, những tỉnh nghèo nhất thường đồng thời có nhiều người di cư nhất lại là những tỉnh cần chi tiêu nhiều nhất trong việc hỗ trợ người lao động di cư trở về. Chính vì thế, cần có sự phân bổ ngân sách cho các tỉnh khó khăn nhất theo một cơ chế đặc biệt, và giám sát chặt chẽ sự chấp hành”.
Đặc biệt, các chuyên gia lưu ý, việc hỗ trợ hiện nay đối với người dân và người lao động thấp không đáp ứng mức sống tối thiểu và dự báo chưa đầy đủ mức độ tác động của đại dịch COVID-19 đến đời sống người lao động.
Mức hỗ trợ một lần cho lao động tự do không đáp ứng mức sống tối thiểu còn mức hỗ trợ lao động có hợp đồng lao động trong một số trường hợp không bằng tiền lương tối thiểu quy định của Nhà nước.
Ông Nguyễn Quang Thương, Quyền giám đốc điều hành Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI), tổ chức điều phối Liên minh BTAP, cho rằng: Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp để hỗ trợ cho người lao động chịu ảnh hưởng của COVID-19. Tuy nhiên, mức hỗ trợ cao nhất vẫn thấp hơn mức lương tối thiểu vùng, chưa kể hỗ trợ của Chính phủ là một lần trong khi mỗi đợt dịch Covid-19 bùng phát kéo dài ít nhất là 2 tháng.
Chẳng hạn, quy định “một đối tượng chỉ hưởng một lần trong một chính sách hỗ trợ” trong khi phạm vi chính sách kéo dài hết năm 2021 cho thấy chưa dự báo hết tình hình tác động của dịch COVID-19 đến đời sống người dân, người lao động.
Đưa ra góp ý dự toán ngân sách năm 2022, hầu hết các chuyên gia đưa ra dự báo, dịch COVID-19 sẽ còn kéo dài sang năm 2022, vì vậy dự toán ngân sách cần phải tăng mức chi hỗ trợ cho người lao động, đối tượng yếu thế, người lao động di cư tại các đô thị chịu ảnh hưởng dịch nặng nề khiến họ phải mất việc hoặc ngừng việc và trở về quê quán.
Bà Phạm Minh Thu cho rằng, cần tăng cường chương trình trợ cấp tiền mặt với ngân sách đủ lớn (kinh nghiệm quốc tế khoảng 4 - 5% GDP hàng quý), thực hiện càng sớm càng tốt (chuẩn bị ứng phó với những làn sóng COVID-19 trong năm 2022), tiếp cận theo cách phổ cập nhóm (hộ có trẻ em, hộ có người già, người khuyết tật). Mức hỗ trợ tiền mặt phải đạt “mức sống tối thiểu” và thời gian hỗ trợ tiền mặt tương ứng với thời gian cách ly, giãn cách cộng đồng.
Trong khi đó, đại diện CDI kiến nghị: “Chính phủ Việt Nam có thể tăng mức hỗ trợ cho bằng tiền mặt cho người dân, qua đó kích cầu, góp phần hoàn thành mục tiêu NSNN năm 2022”.
Bà Nguyễn Thu Hương, Quản lý cao cấp chương trình Quản trị tốt, tổ chức Oxfam tại Việt Nam cho rằng: “Việt Nam đang hướng tới mục tiêu “An sinh xã hội toàn dân” và để đạt được mục tiêu này, Việt Nam nên quy định mức phân bổ ngân sách tối thiểu cho An sinh Xã Hội (có thể từ 6-10% GDP), và tăng chi từ ngân sách nhà nước cho chính sách Bảo hiểm xã hội tự nguyện, để người lao động tự do có đầy đủ các quyền lợi tương tự như bảo hiểm xã hội bắt buộc".
Theo báo cáo dự toán NSNN năm 2022 được công bố trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính, thu NSNN 2022 là 1.411,7 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 3,4% so với ước thực hiện năm 2021. Các khoản thu chính được dự toán với sự thận trọng như chính sách giảm thuế thu từ sử dụng đất giảm so 4 % so với cùng kỳ, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu chỉ tăng 5,1% so với số ước thực hiện 2021 và số thu từ dầu thô giảm đi. Về dự toán chi NSNN năm 2022 là 1.784,6 nghìn tỷ đồng, tăng 4,5%; trong đó, chi thường xuyên tăng 5,1% so với dự toán năm 2021 với tăng chi cho một số chính sách an sinh xã hội quan trọng, phát sinh mới là cần thiết và hợp lý. |
Thanh Hoa