Ngày còn bé, cứ độ tháng Chạp, khi cái rét hanh hao ngấm vào từng ngõ nhỏ, bố tôi lại dặn: “Chiều tranh thủ xong bài vở rồi đạp xe xuống nhà ông bà phụ giúp cắt lá dong nhé.” Thế là tôi hăm hở đạp xe xuyên qua những con đường gạch gồ ghề của thôn Lạc Thuỷ. Nhà ông bà tôi nằm bên một góc vườn xanh rì, nơi những khóm lá dong mọc um tùm dưới bóng nhãn, bưởi, mít già cỗi.
Ký ức tuổi thơ trên những đụn lá xanh
Khu vườn ấy là cả tuổi thơ tôi. Những bụi lá ở phía sâu trong vườn, cao quá đầu, là nơi tôi và các anh chị em thường túm tụm với những trò nghịch ngợm. 5 đứa chúng tôi, đứa sau túm áo đứa trước, tạo thành một đoàn tàu, chui rúc trong nh ững bụi lá, bắt đầu hành trình “thám hiểm” từ đầu đến cuối vườn. Bà tôi thường mắng yêu: “Chúng mày giẫm gãy hết lá của ông bà rồi đấy.” Ấy vậy mà vui lắm. Đám trẻ chúng tôi nào hay biết, những tấm lá dong xanh tươi ấy là cả “gia tài” lớn của ông bà, là niềm mong ngóng của bao gia đình mỗi độ Tết đến xuân về.
Lá dong không chỉ mang niềm vui bán Tết, mà còn gói trọn Tết quê tôi. |
Ngày thường, lá dong vẫn được ông bà cắt bán lai rai, thương lái đến hỏi mua cả năm. Nhưng vụ Tết lại khác. Vì nhu cầu mua cao, việc cắt, xếp lá lại đòi hỏi nhiều thời gian nên ông bà tôi phải chuẩn bị cho vụ lá từ rất sớm. Trước Tết cả tháng, khi ngoài chợ bắt đầu bán giang, bà đã mua về, chẻ và phơi để làm lạt bó lá.
Nhìn bà tôi, mái tóc bạc phơ, tay cầm con dao bổ cau, khéo léo chọn cắt từng tàu lá, tôi hiểu Tết đã thật gần. Ông tôi thì tỉ mẩn xếp lá, còn tôi chỉ được giao việc “trẻ con”: múc nước giếng tưới lá hay ôm từng bó lá vào sân. Dưới đôi bàn tay lành nghề của ông bà tôi, mỗi bó lá được bó vuông vức, ngay ngắn như một tác phẩm hoàn hảo, mang theo niềm tự hào của một gia đình gắn bó với nghề bao đời.
Những ngày ấy, làng tôi tấp nập xe chở hàng của thương lái. Họ đi từng ngõ, gõ từng nhà để hỏi mua, ra giá. Những lúc rỗi rãi, họ ngồi nói chuyện ở đầu làng rôm rả. Trong sân, những bà, những cô cũng rôm rả không kém, từ chuyện “nay lá bao nhiêu?” đến chuyện con cái, mùa màng.
Ngoài việc bán trực tiếp cho thương lái, bà tôi cũng tự mình chuẩn bị những gánh lá dong tươm tất, mang ra chợ Tết. Có năm, mẹ tôi nói vui: “Lá của bà lại là ‘hoa hậu’ rồi!”, ý khen lá của bà đẹp nhất chợ. Cái đẹp ấy, theo chuẩn người trồng lá, là phải to, xanh, dày và không xém mép. Cùng trên vùng đất giàu phù sa, “tốt lá” có tiếng nhưng lá dong của ông bà tôi nổi trội hơn các nhà khác trong làng, chắc cũng có “bí quyết” riêng. Nhưng “bí quyết” ấy, vẫn mãi là một câu chuyện không ai kịp nắm giữ khi ông bà đã đi xa.
Lá dong không chỉ mang niềm vui bán Tết, mà còn gói trọn Tết quê tôi. Những chiếc bánh chưng, bánh tẻ bà gói bằng lá nhà tự tay chăm bón luôn xanh thơm một cách lạ kỳ. Tết nào cũng vậy, gia đình tôi luôn dành những tấm lá nhỏ, kém đẹp hơn để gói bánh ăn Tết. Mùi lá dong hoà quyện với gạo nếp, đậu xanh và thịt mỡ thành một ký ức không bao giờ phai nhạt.
Diện mạo mới của làng lá dong
Cả một vùng quê rộng lớn nay trồng kín lá dong. Không còn những ruộng lúa ngả vàng ngày mùa, thay vào đó là những rặng nhãn, bưởi, chuối xen lẫn những luống lá xanh mướt trải dài. |
Sau này, lớn lên, đi xa quê, tôi vẫn luôn nhớ những ngày tháng Chạp rộn rã của Lạc Thuỷ. Và rồi năm nay, sau bao năm bôn ba, dịp cuối năm, tôi cùng chồng, con về thăm quê, háo hức thăm lại mảnh vườn xưa, cảnh cũ, làng cũ... Trên con đường làng xưa, tôi bất ngờ nhận ra Lạc Thuỷ đã khác xưa nhiều lắm. Cả một vùng quê rộng lớn nay trồng kín lá dong. Không còn những ruộng lúa ngả vàng ngày mùa, thay vào đó là những rặng nhãn, bưởi, chuối xen lẫn những luống lá xanh mướt trải dài.
Lá dong không chỉ mang lại cho bà con những cái Tết sung túc hơn mà còn trở thành nguồn thu nhập chính, giúp nhiều gia đình đổi đời. |
Chú Nguyễn Bá Hiền, một người dân trong làng, vui vẻ khoe: “Năm nay lá dong được giá lắm cháu ạ! Sản lượng có giảm một nửa nhưng giá tăng mạnh, mỗi trăm lá được 90.000 - 95.000 đồng, nhờ vậy mà vụ này nhà chú cũng kiếm hơn trăm triệu.”
Lá dong giờ không chỉ bán trong nước mà còn được xuất khẩu phục vụ bà con Kiều bào xa xứ. Câu chuyện của chú Hiền khiến tôi không khỏi ngỡ ngàng. Lạc Thuỷ hôm nay đã biết “xuất khẩu” thứ lá bình dị của mình ra tận nước ngoài.
Nhiều năm nay, sinh kế người dân quê tôi gắn liền với cây nhãn, thứ cây đặc sản Hưng Yên nức tiếng bốn phương nhưng khó chăm sóc, hay mất mùa, giá thấp và cạnh tranh ngày càng gay gắt với nhãn Lạng Sơn, nhãn Thái... Nay, lá dong, một sản phẩm phụ trong các vườn nhãn, không chỉ mang lại cho bà con những cái Tết sung túc hơn mà còn trở thành nguồn thu nhập chính, giúp nhiều gia đình đổi đời.
Lá dong giờ đây không chỉ là thứ cây mang lại thu nhập mà còn là biểu tượng cho sự đổi thay của quê hương Lạc Thuỷ. |
Một hướng đi mới, một niềm hy vọng
Ông Đỗ Nguyễn Cường, Phó Chủ tịch UBND xã Đông Kết, cho biết: “Toàn xã hiện có khoảng 140 mẫu trồng lá dong, tập trung chủ yếu ở thôn Lạc Thuỷ. Nhờ đem lại nguồn thu nhập cao, những năm gần đây, diện tích trồng lá dong ở xã đã được mở rộng. Lá dong Đông Kết là loại lá nếp, nổi tiếng khắp trong và ngoài tỉnh bởi chất lượng nên đã có một số công ty liên hệ với địa phương về tìm hiểu, kết nối tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt có một số đơn vị đã về địa phương thu mua để xuất khẩu”.
Không chỉ dừng lại ở việc bán lá, chính quyền xã còn phối hợp với các công ty tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật trồng và thu hoạch, giúp bà con nâng cao năng suất. Lá dong giờ đây không chỉ là thứ cây mang lại thu nhập mà còn là biểu tượng cho sự đổi thay của quê hương Lạc Thuỷ.
Lá dong đang trở thành niềm tự hào của người dân Lạc Thủy. |
Nhìn những chiếc lá dong xanh mướt xếp gọn gàng trong sân, tôi nhận ra: Dù thời gian có trôi đi, dù làng quê có thay đổi ra sao, thì sắc xanh của lá dong vẫn luôn là một phần không thể thiếu trong cái Tết Việt. Nó không chỉ gói ghém hương vị truyền thống trong từng chiếc bánh chưng, bánh tẻ, mà còn mang theo câu chuyện của làng quê cần cù, chịu thương chịu khó.
Chuyến về quê này không chỉ đưa tôi trở lại những ký ức tuổi thơ, mà còn cho tôi thấy một Lạc Thuỷ mới – giàu đẹp và tràn trề hy vọng. Mảnh đất này, với những chiếc lá xanh giản dị, đã và đang viết nên câu chuyện Tết ấm no và sung túc cho bao người dân quê tôi.
Đỗ Kiều