Điểm đáng chú ý trong báo cáo kinh tế vĩ mô năm 2026 được Bộ phận phân tích Công ty chứng khoán PSI phát hành vào tháng 12/2025 đã nhận định xuất khẩu (XK) sẽ tiếp tục tăng trưởng khoảng 17% trong năm 2026 sắp tới với động lực chính vẫn đến từ nhóm doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cùng các sản phẩm điện thoại, máy ảnh, thiết bị điện tử và linh kiện với lợi thế về mức thuế tổng hợp.
Khối FDI vẫn là động lực chính tăng trưởng xuất khẩu
Trong khi đó, PSI chỉ rõ các DN nội địa sản xuất hàng dệt may, da giày, thuỷ sản và XK các sản phẩm nông nghiệp khác có thể phải đối mặt với cạnh tranh cao hơn.
![]() |
|
Nhóm doanh nghiệp FDI tiếp tục là động lực chính cho tăng trưởng xuất khẩu và có một “đường biên” về công nghệ so với các doanh nghiệp nội địa vốn chịu nhiều khó khăn và tổn thương. |
“Dù vậy, chúng tôi kỳ vọng nhóm DN nội địa có thể chứng kiến giá trị XK tăng trưởng dương trong năm tới từ mức nền thấp của 2025”, phía PSI bày tỏ.
Và nếu nhìn lại bức tranh XK năm 2025 (có thể đạt khoảng 910 tỷ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2024) cũng sẽ thấy XK nhóm FDI bứt phá nhưng các DN nội địa lại chịu tổn thương. Theo giới phân tích, trong gần 12 tháng của năm 2025, nhóm doanh nghiệp FDI với các sản phẩm giá trị cao như máy tính, điện thoại, máy ảnh, linh kiện điện tử chứng kiến tăng trưởng mạnh mẽ và đóng góp toàn bộ cho tăng trưởng XK.
Còn ở chiều ngược lại, nhóm DN nội địa gặp nhiều khó khăn với 6 tháng liên tiếp tăng trưởng âm so với cùng kỳ. Điều này phản ánh tác động rõ rệt của việc Việt Nam đang phải chịu mức thuế quan cao lên các DN nội với mặt hàng XK chủ yếu là nông sản, dệt may, đồ gỗ, nội thất..., trong khi nhóm hàng công nghệ cao được hưởng mức thuế ưu đãi hơn mức bình quân.
Giới quan sát cho rằng xét trên tổng thể tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta tiếp tục tăng mạnh, giá trị xuất siêu cũng ghi nhận tích cực trong cả năm 2025, tuy nhiên nhìn vào thực tế tăng trưởng trong xuất nhập khẩu hầu như chỉ đến từ khối doanh nghiệp FDI.
Ngược lại, có thể đánh giá tác động thuế đối ứng lên khối DN trong nước là rất lớn, sự suy giảm đã xuất hiện từ thời điểm thuế chưa chính thức được áp dụng. Tuy nhiên, nhìn vào năm 2026 sắp tới cũng có thể nhìn nhận là cơ hội để các DN khối nội tiếp tục mở rộng thị trường XK để không phải bị bỏ lại quá xa so với khối ngoại.
Thực ra, tầm ảnh hưởng về tăng trưởng XK của các doanh nghiệp FDI hiện đang rất rộng chứ không đơn thuần từ nhóm hàng công nghệ cao. Ngay như trong hoạt động XK nông sản cũng cho thấy mức độ “lấn sân” của khối ngoại.
Điển hình như XK cà phê tính cả năm 2025 được cho là có thể phá kỷ lục lịch sử với kim ngạch vượt mốc trên 8 tỷ USD. Tuy vậy, trong báo cáo thực trạng ngành cà phê do tổ chức Forest Trends và Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (Vicofa) thực hiện cách đây không lâu, đã chỉ rõ khâu XK hiện nay chủ yếu do các công ty FDI đảm nhận, bao gồm nhiều công ty đa quốc gia.
Theo đó, kim ngạch XK của 15 công ty lớn nhất, chủ yếu là các công ty FDI, chiếm 70% tổng kim ngạch XK của cả ngành. Phần kim ngạch còn lại (30%) là của 150 công ty, chủ yếu là nội địa. Chính sách hiện tại của Việt Nam không cho phép các công ty FDI mua cà phê trực tiếp từ nông hộ, do vậy các công ty có vốn nội địa đóng vai trò trung gian, thu mua nguyên liệu từ nông hộ rồi bán cho công ty FDI để XK.
Cũng theo báo cáo này, doanh nghiệp FDI chiếm thị phần lớn trong xuất khẩu cà phê rang xay và hòa tan, trong khi DN nội địa chiếm ưu thế trong XK cà phê nhân sống.
Chờ xóa nhòa “đường biên” công nghệ
Không chỉ là động lực chính cho tăng trưởng XK, sự thống trị của các doanh nghiệp FDI trong ngành công nghệ cao ở Việt Nam đang hạn chế khả năng lan tỏa công nghệ và giảm hiệu quả nâng cao năng suất trong nước.
Đơn cử như ở ngành công nghiệp điện tử. Theo Ts. Nguyễn Châu Trinh, chuyên gia kinh tế, sự hiện diện áp đảo của các doanh nghiệp FDI trong chuỗi giá trị có thể gia tăng cạnh tranh, đẩy lùi các DN trong nước hoặc kìm hãm họ trong các phân khúc có giá trị gia tăng thấp với ít cơ hội nâng cấp công nghệ.
Ts. Trinh cho rằng khoảng cách công nghệ vẫn tiếp tục tồn tại giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI cùng ngành công nghiệp điện tử, phản ánh mức độ lan tỏa công nghệ còn hạn chế.
Từ đó để thấy việc nâng cấp công nghệ cho DN khối nội trong ngành công nghiệp điện tử vẫn còn là mục tiêu xa vời trước “đường biên công nghệ” do các doanh nghiệp FDI thiết lập trong nhiều năm nay.
Trên thực tế, so với tầm ảnh hưởng của khối ngoại thì các DN sản xuất nội địa vẫn đang chịu áp lực ngày càng lớn trong quá trình XK. Các DN khối nội thường xuyên đối mặt áp lực tổ chức sản xuất để đảm bảo giao hàng đúng hẹn, khả năng kiểm soát và nâng cao chất lượng sản phẩm, phụ thuộc trung gian, bài toán công nghệ, vốn, nhân lực và hiệu quả vận hành…
Ngoài những vấn đề nêu trên, nhân bàn về việc ứng dụng Trí tuệ nhân tạo (AI) trong sản xuất tại Việt Nam, Phó Giáo sư Ali Al-Dulaimi, Trưởng khoa Khoa học Máy tính và Công nghệ, Đại học Anh Quốc Việt Nam (BUV), nêu rõ nguy cơ về sự hình thành một “nền kinh tế hai tốc độ”.
Theo đó, trong khi khoảng 9% DN tiên phong, chủ yếu là các công ty FDI và các tập đoàn lớn, đã chủ động áp dụng các công nghệ tiên tiến như bản sao số và phân tích dựa trên AI, thì 91% các DN vừa và nhỏ ở Việt Nam vẫn đang gặp khó khăn trong việc áp dụng công nghệ, với sự phụ thuộc đáng kể vào các phương pháp ghi chép thủ công qua Excel và các hệ thống chưa được cập nhật.
“Sự chênh lệch này có thể làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp chưa ứng dụng AI hiệu quả”, Phó Giáo sư Ali Al-Dulaimi nói.
Còn theo Ts. Dương Hồng Loan, Viện trưởng Viện Sáng kiến Việt Nam, thực tiễn cho thấy khoảng 70% nhân lực cần được bổ sung kiến thức về AI và 17% lực lượng lao động có nhu cầu đào tạo công nghệ cao trong thời gian tới. Bên cạnh đó, bài toán cân đối nguồn lực cũng được đặt ra khi 58% DN quan tâm đến vấn đề chi phí.
Đối với chiến lược triển khai AI cho khối DN vừa và nhỏ trong nước, Ts. Loan có lời khuyên cho họ là nên định hướng tập trung vào các giải pháp thực tiễn, tối ưu chi phí.
Tựu trung, giữa mối lo vẫn còn nguyên khi DN khối nội “chênh vênh” trước khối ngoại, điều mong mỏi khi bước vào năm 2026 nằm ở việc nâng cao nội lực DN trong nước, tăng tỷ trọng XK của DN nội địa và giảm dần sự phụ thuộc vào khối FDI. Để làm được điều này, cần đẩy mạnh nội địa hóa chuỗi giá trị, cũng như dần xóa nhòa “đường biên” công nghệ giữa khối nội và khối ngoại.
Thế Vinh
