Trao đổi tại diễn đàn "Khu công nghiệp Việt Nam - 2022: Khơi thông làn sóng đầu tư mới" diễn ra hôm 11/8, ông Nguyễn Anh Tuấn, Cục phó Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch & Đầu tư cho rằng, Việt Nam đang đứng trước 6 cơ hội để đón ‘làn sóng’ đầu tư mới.
Thứ nhất với việc kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, duy trì ổn định hoạt động sản xuất - kinh doanh, Việt Nam vẫn được đánh giá là điểm đến đầu tư an toàn, tiềm năng và hấp dẫn trong chính sách đa dạng hóa chuỗi cung ứng, sản xuất toàn cầu của các nhà đầu tư. Việt Nam đang có cơ hội đón đầu dòng vốn đầu tư thế hệ mới và dòng vốn tái định vị sản xuất, đa dạng hóa nguồn cung ứng của các nước đối tác lớn và các Tập đoàn đa quốc gia. Các ngành công nghiệp có nhiều triển vọng đón nhận dịch chuyển đầu tư đều là các ngành sản xuất chủ lực, có đóng góp lớn trong tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam như: chế biến thực phẩm, thiết bị điện tử, thương mại điện tử và logistics, công nghiệp sản xuất hàng điện tử và linh kiện, công nghiệp chế biến, ô tô ...
![]() |
Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội để đón 'làn sóng' đầu tư mới sau đại dịch Covid-19. |
Thứ hai, vị thế quốc tế của Việt Nam đang được nâng cao cùng với các hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực của lãnh đạo cấp cao Đảng và nhà nước, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, sẽ tiếp tục củng cố lòng tin và làm gia tăng mối quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta trong năm 2022 và thời gian tới.
Thứ ba, với sự quan tâm cao của Chính phủ và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của các doanh nghiệp, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam ngày càng trở nên thông thoáng, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư.
Thứ tư, lợi thế về nhân lực và thị trường nội địa với gần 100 triệu dân với tầng lớp trung lưu tăng nhanh, tạo nên một thị trường có sức mua khá lớn, đang thu hút sự quan tâm của nhà ĐTNN. Vừa qua, Việt Nam trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 ASEAN với quy mô GDP trên 350 tỷ USD. Việt Nam là nền kinh tế có độ mở cao, là thành viên của 15 FTA với 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thị trường rộng lớn đầy tiềm năng. Việt Nam lần đầu tiên được UNCTAD đưa vào Top 20 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới trong năm 2020.
Thứ năm, doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc các tập đoàn lớn đang có kế hoạch dịch chuyển hoặc tái cơ cấu chuỗi sản xuất theo hướng “Trung Quốc +1” mở ra cơ hội cho doanh nghiệp nội tham gia chuỗi cung ứng mới của thế giới. Qua đó, sẽ giúp cải thiện đáng kể chất lượng đầu tư (về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản trị), có thể góp phần hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế trong nước.
Thứ sáu, Việt Nam có cơ hội đón đầu xu hướng chuyển dịch chuỗi sản xuất toàn cầu để thu hút ĐTNN phát triển một số lĩnh vực mới tại Việt Nam (chưa có nhiều dự án ĐTNN) như: trang thiết bị y tế, sinh học, hóa dược, hóa sinh, dược phẩm, các sản phẩm công nghệ thông tin...
Tuy nhiên, ông Tuấn nói rằng để nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài và đạt được những mục tiêu đề ra, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp.
"Với sự quan tâm cao của Chính phủ và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng của các doanh nghiệp, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam ngày càng trở nên thông thoáng, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư".
Nguyễn Anh Tuấn, Cục phó Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
Theo đó, cần hoàn thiện thể chế, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cân đối, hợp lý giữa các vùng, miền; bảo đảm việc thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài theo đúng định hướng, quy hoạch và yêu cầu phát triển. Xây dựng thể chế, chính sách cho các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao...Đặc biệt, cần đưa ra các chính sách ưu đãi thu hút đầu tư thế hệ mới thay thế dần các chính sách thu hút đầu tư hiện nay khai thác lợi thế cạnh tranh truyền thống đang dần không còn phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay.
Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ban hành danh mục các dự án ưu tiên thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhằm phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng chất lượng cao, như: hạ tầng giao thông, hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin, logistics,... xây dựng và phát triển Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia, kết nối với trung tâm đổi mới sáng tạo cấp vùng, của địa phương và doanh nghiệp nhằm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. Đồng thời, tạo sự kết nối, lan tỏa, hỗ trợ lẫn nhau giữa khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế trong nước.
Ngoài ra, phát triển công nghiệp hỗ trợ, thúc đẩy liên kết và lan tỏa: Có cơ chế khuyến khích, ưu đãi thoả đáng để tăng liên kết giữa ĐTNN và đầu tư trong nước, các lĩnh vực cần ưu tiên thu hút; xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp ĐTNN, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, dần tiến tới tự chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khuyến khích chuyển hướng thu hút ĐTNN bằng nguồn nhân lực chất lượng cao; nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp với các Tập đoàn, nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước để đào tạo theo “đơn đặt hàng”.
Hiện đại hóa và đa dạng hóa công tác xúc tiến đầu tư, tăng cường sự phối hợp, liên kết giữa Trung ương với địa phương, tăng cường kết hợp xúc tiến đầu tư cấp quốc gia, vùng và trong các hoạt động đối ngoại cấp cao nhà nước; nâng cao tính chuyên nghiệp, cải thiện nội dung và hình thức XTĐT, trong đó, ưu tiên tăng cường xúc tiến đầu tư tại chỗ.
Cuối cùng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ĐTNN. Đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài thông qua các công cụ quản trị hiện đại, có tính hệ thống, cơ sở dữ liệu đầy đủ, toàn diện, có những cảnh báo sớm. Đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc cấp, điều chỉnh, thu hồi dự án đầu tư nước ngoài, ban hành quy định ưu đãi, hỗ trợ đầu tư... Xử lý dứt điểm các dự án gây ô nhiễm môi trường, sử dụng đất không hiệu quả, kinh doanh thua lỗ nhiều năm, dự án không triển khai hoặc không thực hiện đúng cam kết.
Q.A